Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 13 - Trung hữu của Sinh tới Chết

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10260)
Bài 13 - Trung hữu của Sinh tới Chết

Kalu Rinpoche

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 13]
Trung hữu của Sinh tới Chết 
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Bardo of Birth to Death

Khi tôi ở trong trung hữu của sinh tới chết, tôi nguyện không uổng phí thời gian;
Buông bỏ lười biếng, tôi nguyện chăm chú học, thấm nhập và thiền định về giáo pháp.
Tôi nguyện thực hành thiền quán, hội nhập trên đạo lộ Hiện tướng và tâm.
Liên Hoa Sinh. Tử thư Tây Tạng.

THỜI KÌ TRONG THAI

Khi hữu tình trung hữu hoặc thức tái sinh, hợp nhất với những tinh chất của mẹ và của cha, những kí ức trở thành bị mờ lẫn và bắt đầu biến mất giống như những chiêm bao không rõ nét của giấc ngủ sâu.

Trong suốt tuần lễ thứ nhất trong tử cung, phôi bào giống như nước cơm đặc và chịu đau đớn như là nó đang bị nấu trong một cái nồi đồng. Trong tuần lễ thứ nhì, nó thì hình thon thon, và giống như bơ đông đặc; ở điểm này, khí lan toả làm phân biệt biệt bốn nguyên tố (đất, nước , lửa và khí). Trong tuần lễ thứ ba, phôi có một hình dáng rõ nét, hình thể giống như một con kiến, và nhờ có khí tăng hoạt, sự ứng hiện của bốn nguyên tố trở thành rõ ràng.

Phôi tiếp tục biến đổi cho tới tuần lễ thứ bảy, khi khí xoắn hình thành hai tay, hai chân (bốn chi), tạo thành cảm thọ bị trải dài như theo một cây gậy. Ở tuần lễ thứ bảy, khí mở thông tạo ra chín lỗ mở của thân (hai con mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, miệng, đường tiểu tiện, đường đại tiện // cửu khiếu) (nine bodily openings). Đối với phôi điều này cảm thấy như là một vết thương hở bị một ngón tay thọc vào.

Từ thời điểm này, nếu người mẹ ăn một thức lạnh, phôi cảm thấy như bị ném lên trên nước đá; nếu bà mẹ ăn nhiều, phôi cảm thấy bị ép giữa những hòn đá; nếu bà mẹ ăn quá ít, như đang bị quay vòng trong không khí; nếu bà chạy nhanh hoặc té ngã, nó cảm thấy như bị liệng xuống một bờ đá dốc; nếu bà giao hợp, đối với phôi nó giống như bị quất với những gai sắt.

Sau tuần lễ thứ ba mươi bảy, thai nhi bắt đầu nhận thức ở trong tử cung của mẹ như trong trạng thái bị giam giữ trong một nơi tối, khổ; nó thì không hạnh phúc và muốn thoát ra ngoài. Trong suốt tuần lễ thứ ba mươi tám, đứa bé được hướng tới ống âm đạo bởi khí “hội hợp hoàn hảo” và chịu khổ như là thân theo bánh xe quay.

Như vậy thai nhi được sinh động bởi 28 khí (=gió; winds). Nó tăng trưởng, được nuôi dưỡng bởi máu của người mẹ và các chất dinh dưỡng, cho tới khi thân của nó được hình thành một cách trọn vẹn.

Cuối cùng, được xoay bởi khí chuyển hoàn, đứa bé ngoi lên, hai cánh tay gấp lại, chịu khổ như là bị ép qua một ống hẹp. Khi đứa bé ra khỏi tử cung, nó có cảm giác như bị đặt trên những gai nhọn; cuối cùng, khi nó được lau sạch và làm khô, nó cảm thấy như bị đốt lúc đang sống. Xem xét tất cả những đau đớn này, ai muốn trở lại tử cung của người mẹ? Đây là chúng ta được sinh ra như thế nào.

TRONG SUỐT CUỘC ĐỜI

Trong suốt trung hữu này của sống tới chết, đó là cuộc đời bình thường, tâm sản sinh ra ngu si căn bản (=vô minh căn bản) là quan niệm hiện hữu tồn tại trong trạng thái một thân, xem thân như là chính nó.

Cái ngu si này về thân của chúng ta cũng nương tựa vào những nguyên tố đất, nước, lửa và khí. Những nguyên tố này hiện hữu trong chúng ta từ khi có nhận thức, ở mức nội quan và ngoại quan cho đến nay. Chúng trưởng thành trong chúng ta như một đoá hoa nở. Do sự trưởng thành của chúng, thân và tâm phát triển, tăng trưởng, và thành đạt năng lực của chúng. Thời kì tăng trưởng này có thể kéo dài đến 25 năm, sau đó, trong trong phần thứ nhì của đời người, thân và các khả năng yếu kém đi; một tiến trình thoái hoá đi với già, theo sau cuối cùng là chết. Thế nên, có hai giai đoạn tự nhiên: tiến triển và thoái triển. Tuy nhiên, tiến trình này có thể bị ngăn trở bởi cái chết đột ngột, như kiểu một đoá hoa bị cắt đi.

Trong trung hữu của sinh tới chết, chúng ta cũng trải nghiệm trung hữu chiêm bao và có lẽ trung hữu của thiền định. Thế rồi lại một lần nữa, chúng ta đi tới trung hữu của tính khôngtrung hữu của hữu tái sinh, cái dẫn chúng ta hướng tới một cái sinh khác nữa. 

_______________________________________

Chú thích

Clouded: dark; dull

Clouded dreams: những chiêm bao không rõ nét.

Primary delusion : ngu si căn bản =vô minh căn bản

Primary = first = original =fundamental

Ngài Vô Trước ( Asanga) giảng:

Si = ngu si = vô minh = vô trí = vô kiến = phi hiện quán = hôn muội = hắc ám

Ngữ cảnh phật học:

ignorance (vô minh) = fundamental ignorance (vô minh căn bản) = delusion (ngu si; vô trí) = stupidity (ngu si)

______________________________

Kalu Rinpoche

The Bardo of Birth to Death

When I am in the bardo of birth til death, may I waste no time;
Abandoning laziness, may I engage without distraction in the study, assimilation of, and meditation on the teachings.
May I practice, integrating on the path Appearance and mind.
Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead

_____________________________

GESTATION

When the bardoa, or rebirth consciousness, unites with the mother’s and father’s substances, memories become confused and begin to disappear like the clouded dreams of deep sleep.

During the first week in the womb, the embryo looks like rice mush and suffers as though it were being cooked in a copper pot. In the second week, it is oblong, and looks like frozen butter; at this point, the pervasive wind differentiates the four elements (earth, water, fire, and air). In the third week, the embryo has a complete form, shaped like an ant, and, due to the activator wind, the manifestation of the four elements becomes evident.

The embryo continues to change until the seventh week, when the spiral wind forms the four limbs, creating the feeling of being forcefully stretched, as if across a stick. At the seventh week, the opening wind produces the nine bodily openings; to the embryo this feels as if an open wound were being poked with a finger.

From this point on, if the mother eats something cold, the embryo feels as though it is being thrown onto ice; if she eats a lot of food, the embryo feels pressed between rocks; if she eats too little, being whipped around in the air; if she runs violently or falls, it has the feeling of being hurled down the side of a cliff; if she has sex, for the embryo it is like being flogged with metal thorns.

After the thirty-seventh week, the fetus starts to perceive being in the mother’s womb as being imprisoned in a dark, unpleasant place; it is unhappy and wants to get out. During the thirty-eighth week, the baby is directed toward the birth canal by the “joining to the flower” wind and suffers as though the body were being carried away by a moving wheel.

The fetus is thus animated by twenty-eight winds. It grows, nourished by mother’s blood and nutrients, until its body is completely formed.

Finally, turned over by the reversing wind, the baby emerges, arms folded, suffering as though being forced through a narrow tube. When the baby comes out of the womb, it has the sensation of being deposited onto thorns; when it is finally cleaned and dried, it feels like it is being burned alive. Considering all this suffering, who would want to return to the womb? This is how we are born.

DURING LIFE

During this bardo of birth to death, which is ordinary life, the mind produces the primary delusion of existing as a body that it considers its own.

This delusion about our body also rests on the elements earth, water, fire, and air. These elements exist in us since conception, at the inner as well as the outer level. They mature in us like a flower that blooms. By their maturation, the body and mind develop, grow, and acquire their power. This period of growth might last up to twenty-five years, after which, in the second part of lifetime, the body and abilities weaken; a process of deterioration accompanies aging, followed finally by death. There are, therefore, two natural stages: evolution and involution. Nevertheless, this process can be interrupted by a sudden death, as if a flower had been cut.

In the bardo of birth to death, we also experience the dream bardo and maybe the bardo of meditation. Then once again, we pass on to the bardo of emptiness and the bardo of becoming, which lead us toward yet another birth.

________________________

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10195)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11250)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13592)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13745)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22219)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27390)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17784)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11741)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25250)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23293)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28586)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22773)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25720)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22308)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13996)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13438)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22482)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18488)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18967)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21397)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19220)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10622)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18578)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15666)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14028)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11795)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11345)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11898)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19947)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12400)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13943)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13275)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31988)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13444)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13335)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21872)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11098)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12904)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant