Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 11 - Trung hữu của Tính Không

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10236)
Bài 11 - Trung hữu của Tính Không

 Kalu Rinpoche 
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 11]
Trung hữu của Tính Không
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Bardo of Emptiness

Khi thời điểm Tính Không hiện hữu nơi tôi
Tôi nguyện không bị hốt hoảng vì Hội thượng của các vị Phật bảo hộ từ bi và uy mãnh : những biến hiện của chính tâm của tôi.
Liên Hoa Sinh. Tử thư Tây Tạng.

Trung hữu này được gọi là Trung hữu của Tính không bởi vì, như chúng ta vừa mới thảo luận, nó là thời điểm mà quang sắc giác chiếu, hoặc bản chất căn bản của tâm, xuất hiện đối với một hữu tình đã giác ngộ (=viên giác). Trong khi hữu tình viên giác trải nghiệm trung hữu của tính không, thì một hữu tình bình thường trải nghiệm thời kì của bất thức, nói chung, kéo dài ba ngày rưỡi, trong suốt thời gian đó tâm duy trì trong trạng thái bất ý thức, không có khả năng thấu hiểu, tối mịt.

Các quang sắc và chư phật bảo hộ.

Sau thời kì này của bất thức, tâm thức và những huyễn tượng của nó hoạt động trở lại, và trong vài sát na tâm thức trải nghiệm năm quang sắc cảnh chiếu căn bản chúng được miêu tả như là cực kì vi tế. Những quang sắc cảnh chiếu này xuất hiện đồng thời với những phương diện từ bi và uy mãnh của trung hữu, ứng hiện (manifesting) trong trạng thái những cầu vồng, những điểm quang sắc, những đám mây, và những hiện tượng quang minh phát sáng khác. Những hiện tướng vào lúc cuối trung hữu của tính không thì rất chớp nhoáng.

Mặc dù những ứng hiện này (manifestations) rất biến đổi khác biệt, trạng thái này thì tương tự với trạng thái giữa thức dậy và đang ngủ. Những hiện tượng chúng ta vừa thảo luận đặc trưng hoá cái biên giới giữa hai trung hữu này, đã được miêu tả trong quyển Tử thư Tây Tạng như là những ảnh hiện hư huyễn (apparitions) của chư phật bảo hộ từ bi và uy mãnh khác nhau (peaceful and wrathful deities). Nếu chúng ta có thể nhận định sáng tỏ bản chất linh thánh của những hiện tướng này (these appearances), chúng ta có thể hợp nhất với chúng và đạt giải thoát một cách tức thờiđồng thời, trong trạng thái tất cả trải nghiệm và hiện tướng trở thành chính chư phật bảo hộ.

Trong suốt thời kì này, chúng ta nghe những âm thanh đáng sợvũ bão lớn hơn cả ngàn sấm chớp bùng nổ cùng nhau. Âm thanh làm điếc tai này là âm thanh của tính không (=chân không diệu viên). (This deafening sound is the sound of emptiess)

Khắp toàn thể hư không trong mọi phương hướng, nhiều điểm quang sắc khác biệt và những ánh chớp quang sắc rực rỡ như các cầu vồng xuất hiện, và chúng ta tri nhận những cách thế của tồn tại và một linh ảnh của nhiều cõi phật thanh tịnh và những quốc độ linh thánh: tất cả những trạng thái khác biệt của sinh tử lưu chuyển và niết bàn trở thành có thể cảm thấy được. Trải nghiệm của tất cả những sự sự vật vật này thì rất giống như những khu quận hạt sống động của Paris trong suốt những giờ cao điểm xe cộ qua lại. Nó thì giống như chúng ta ở trong giữa đám đông người nhộn nhịp qua lại một cách không ngừng, và dòng xe cộ theo đủ mọi phương hướng. Để cho tỉ dụ của chúng ta đầy đủ, chúng ta phải thêm những chuyến xe lửa nặng nề và những máy bay dàn hàng ngang trên bầu trời; và toàn quang cảnh hỗn độn ầm ầm.

Những người đã được điểm đạo tu tập thiền quán trung hữu và có trải nghiệm thực sự về chúng có thể nhận ra được nhiều hiện tướng khác biệt này và đạt đến giải thoát ở giai đoạn này. Nếu không đạt giải thoát, thì gặp khá khó khăn. Không nhận biết sáng tỏ bản chất chư phật bảo hộ uy mãnh, kẻ đó bị hoảng sợ và, bị tê liệt với nỗi sợ hãi, đánh mất ý thức (=tâm thức). Và bởi vì bản chất của những phương diện từ bi đi qua không được nhận định, đó là không thể dung hội với quang chiếu của chư phật bảo hộ, thế nên kẻ đó lui lại vì hốt hoảng dường như bị mù loà vì quang sắc của mặt trời hoặc mặt trăng.

Vào thời điểm này, những quang sắc cực kì rực rỡ trắng, vàng, đỏ, lục, và lam xuất hiện; chúng là những quang sắc của sáu cõi phật thanh tịnh. Vào cùng thời điểm, sáu quang sắc tương ứng của sáu cõi của sinh tử lưu chuyển xuất hiện. Những quang sắc này có cùng màu sắc với những quang sắc của sáu cõi phật nhưng mờ nhạt hơn nhiều (xỉn, xạm, ảm đạm). Sự viên minh quang chiếu chói lọi rực rỡ của những quang sắc phật thì chói loà và khó dung hội, làm cho chúng ta thoái lui cách tuyệt chúng. Trái lại, những quang sắc mờ nhạt của sáu cõi sinh tử lưu chuyển thì hấp dẫnquyến rũ và dẫn đẩy chúng ta sinh vào nơi đó.

Kết thúc của trung hữu của tính không là giai đoạn của sự tái cấu trúc của tâm thức. Những khí làm sinh động tâm thức tái ứng hiện (remanifest). Cái khí “cái làm vô minh sinh khởi” trở lại đồng thời trong trạng thái khí nguyên tố khí, tương ứng với những linh ảnh của những quang sắc màu lục. Rồi thì, những khí lửa, nước, và đất, tương ứng theo thứ tự với những quang sắc màu đỏ, trắng, và vàng, tái xuất hiện. Năm quang sắc này là những hoá hiện của năm khí và bản chất tinh yếu của năm nguyên tố (năm đại). Sự tái biến hiện này của năm nguyên tố được sinh ra trong trạng thái thân tâm ý của hữu tình trong trung hữu và những trải nghiệm bên ngoài của nó được kiến lập .

Dựa vào sự tái hiện của những khí, những loại khác biệt của các ý niệm trở lại trong thứ tự đảo ngược của sự biến mất của chúng: trước nhất bảy (7) loại của vô minh hoặc ngu si, theo sau bởi bốn mươi (40) loại của tham dục hoặc quyến luyến, và sau cùng, ba mươi ba (33) loại của thù ghét hoặc đối nghịch. Đây là cách như thế nào sự ứng hiện và những trải nghiệm của trung hữu của hữu tái sinh xuất hiện, nó sẽ ngừng lại khi tái sinh xảy ra trong một trong sáu cõi của sinh tử lưu chuyển. 

______________________________________

 Kalu Rinpoche

The Bardo of Emptiness

When the moment is upon me
May I not be frightened by the collection of peaceful and wrathful aspects :
Emanations of my own mind.
Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

_________________

This bardo is called the bardo of emptiness because, as we have just discussed, it is the moment at which the clear light, or the essential nature of mind, appears to an enlightened being. The period of unconsciousness that an ordinary being experiences instead generally lasts three and a half days, during which time the mind remains in a dark, impenetrable, and unconscious state.

LIGHTS AND DEITIES

After this period of unconsciousness, the consciousness and its illusions revive, and for few moments the consciousness experiences five essential luminosities that are described as extremely subtle. These appear simultaneously with the peaceful and wrathful aspects of the bardo, manifesting as rainbows, points of light, clouds, and other luminous phenomena.The appearances at the end of the bardo of emptiness are very fleeting.

Although these manifestations vary, this state is similar to that between waking and sleeping. The phenomena we have just discussed, which characterize the boundary between these two bardos, are described in The Tibetan Book of the Dead as apparitions of various peaceful and wrathful deities. If we can recognize the divine nature of these appearances, we can unite with them and immediately and spontaneously gain liberation, as all experience or appearance becomes the deity itself.

During this period, we hear violent and terrifying sounds louder than a thousand thunderclaps exploding together. This deafening sound is the sounds of emptiness.

Throughout space in all directions, many different points of light and brilliant flashes of light like rainbows appear, and we perceive the conditions of existence and a vision of the various pure Buddha realms and their celestial spheres: all of samsara’s and nirvana’s different states become perceptible. The experience of all these things much like the lively districts of Paris during rush hour. It is as though we were in the middle of a huge throng, with people bustling here and there endlessly, and streams of cars driving in every direction. For our example to be complete, we would have to add heavy train traffic along with many airplanes criss-crossing the sky above, and the whole chaotic spectacle throbbing.

People initiated into practices of the bardo who have an authentic experience of them can recognize these various appearances and gain liberation during this phase. Otherwise, it gets a bit difficult. Not knowing the nature of the wrathful deities, a person is terrified and, paralyzed with fear, loses consciousness. And since the nature of the peaceful aspects goes unrecognized, it is impossible to tolerate their radiance, so people recoil as if blinded by the light of the sun or the moon.

At this moment, extremely brilliant white, yellow, red, green, and blue lights appear; they are the lights of the six pure Buddha realms. At the same time, six lights corresponding to the six realms of samsara appear.These six are the same colours as the six Buddha realms’s but are much duller. The vivid clarity of the Buddha lights is dazzling and difficult to tolerate, which make us withdraw from them. By contrast, the pale lights of the six realms of samsara are attractive and seductive and propel us to take rebirth there.

The end of the bardo of emptiness is the period of the restructuring of consciousness. The winds that animate consciousness remanifest. The wind “that makes ignorance arise” returns at the same time as the air wind, which corresponds to visions of green lights. Then, the fire, the water, and the earth winds, corresponding respectively to red, white, and yellow lights, reappear.

These five lights are the emanation of the five winds and the quintessence of the five elements. This remanifestation of the five elements is produced as the mental body of the bardo being and its outer experiences are created.

Upon the reappearance of the winds, the different types of conceptions return in the inverse order of their disappearance: first, the seven (7) kinds of ignorance or stupidity, followed by the forty (40) types of desire or attachment, and finally, the thirty- three (33) kinds of hatred or aversion. This is how the manifestation and experiences of the bardo of becoming appear, which will stop when rebirth occrs in one of the six realms of samsara.

________________________________

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Budda. Wisdom, 1997.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19901)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20965)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19339)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40614)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21309)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41138)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24154)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23089)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17883)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27027)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20782)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33683)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21088)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 29010)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12726)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25383)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19179)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17551)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25854)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19044)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19027)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29084)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18943)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33390)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38452)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31301)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18269)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24548)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19472)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17943)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23126)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18053)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32278)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17414)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17450)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16109)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18595)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20806)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18113)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20147)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14932)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20964)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15086)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15801)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12957)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14530)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14949)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29470)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12790)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14556)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant