Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Linh chánh pháp cửu trụ

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13171)
10. Linh chánh pháp cửu trụ

BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ÐỀ
勸發菩提心文

Đại Sư Thật Hiền Soạn
Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng

Chánh tông phần

X. LINH CHÁNH PHÁP CỬU TRỤ

 

Nguyên văn:

云 何令正法久住?謂我世尊,無量劫來,為我等故,修菩提道。難行能行,難忍能忍,因圓果滿,遂致成佛。既成佛已,化緣周訖,入於涅槃,正法像法,皆已滅盡, 僅存末法,有教無人。邪正不分,是非莫辨,競爭人我,盡逐利名。舉目滔滔,天下皆是。不知佛是何人?法是何義?僧是何名?衰殘至此,殆不忍言!每一思及, 不覺淚下。我為佛子,不能報恩,內無益於己,外無益於人;生無益於時,死無益於後。天雖高,不能覆我;地雖厚,不能載我。極重罪人,非我而誰?

Âm Hán Việt:

Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo. Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn, nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật. Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn. Chánh pháp tượng pháp, giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp, hữu giáo vô nhân. Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện, cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh, cử mục thao thao, thiên hạ giai thị. Bất tri Phật thị hà nhân? Pháp thị hà nghĩa? Tăng thị hà danh? Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ. Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân, nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân, sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã; địa tuy hậu, bất năng tải ngã. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy?

Dịch:

Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài? Ðức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng tatu đạo Bồ đề, Ngài đã làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn, nhân tròn, quả mãn, mới được thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn. Nay thì thời kỳ Chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp còn đó mà không người hành trì, tà chánh không phân, thi phi lẫn lộn, tranh giành nhân ngã, mãi chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa gì, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời. Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau. Trời tuy cao cũng không che nổi ta, đất tuy dày cũng khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không phải ta thì là ai?

 

Giảng:

Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vân hà là như thế nào ? Như thế nào khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài ? khiến cho chánh pháp không bị diệt vong?

 

Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai : Vị là những điều nói ra. Thế Tôndanh hiệu khác của Ðức Phật. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp cho đến nay, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo : Ðức Phật tại sao muốn tu hành thành Phật ? Ngài muốn tu hành thành Phật vì để cứu độ tất cả chúng ta lìa khổ được vui, khiến chúng ta đều được liễu thoát sanh tử, không bị luân chuyển trong vòng luân hồi sanh tử, cho nên Ðức Phật mới "tam kỳ tu phúc huệ, bách kiếp chủng tướng hảo", ba tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp vun trồng tướng tốt.

Tam kỳ, tức là ba đại tăng kỳ kiếp ; A tăng kỳ là tiếng Phạn, Tàu dịch là "vô lượng số". Ba đại A tăng kỳ kiếp tức là ba số lớn vô lượng. Vô lượng số này là một trong mười sáu số mục lớn, vậy ba vô lượng số lớn, bạn thử nghĩ xem thời gian bao lâu ? Rất dài rất dài. Trong ba vô lượng số kiếp này, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì để giáo hóa chúng sanh, vì để tu thành Phật, vì để phát tâm Bồ đề, Ngài xả sanh rồi lại thọ sanh, cho nên mỗi hạt vi trần đều là nơi Ðức Phật bỏ sanh mệnh. Như xả thân cứu cọp, Ðức Phật nhìn thấy một con cọp già tuy rất độc ác, nhưng đã sắp chết đói, Ðức Phật ngay cả thân mệnh của mình cũng không cần, cho cọp ăn khiến nó được sống, sự hy sinh vĩ đại này, không ai có thể sánh bằng. Chúng ta đều là những người tham sống sợ chết, không một ai dám hy sinh mạng sống, thành tựu cho người khác, khiến người khác được sống. Vậy thì Ðức Phật ở trong thời gian dài đăng đẳng ba đại A tăng kỳ kiếp, đời đời kiếp kiếp đều lấy sanh mạng bố thí cho chúng sanh, cho nên chúng ta cần phải báo đáp ân sâu của Phật. Như chúng ta hiện nay, xưa kia hoặc là đã ăn thịt của Phật, uống máu của Phật ; cho nên chúng ta hiện nay tin Phật, cần nên báo đáp ân sâu của Phật. Ðức Phật vì muốn chúng ta được sống, phải hy sinh thân mạng của mình, vì thế chúng ta cần phải nhớ ơn Ðức Phật.

 

Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn : tại sao gọi là làm việc khó làm ? Chính là những việc mà người thường làm không được, Ngài có thể làm được. Như xả bỏ đầu mắt não tủy, đầu mắt của mình đều có thể bố thí cho người. Không phải chết mới bố thí cho người, đang sống cũng có thể bố thí. Bạn cần con mắt, Ngài sẽ bố thí mắt cho bạn. Bạn có bệnh, cần có não người để trị, Ngài sẽ không cần đến sanh mạng của mình đem não bố thí cho bạn, cứu độ bạn. Tủy là cốt tủy ; cốt tủy của mình cũng bố thí cho người. Không những đầu mắt não tủy, mà quốc thành thê tử cũng bố thí luôn. Quốc là đất đai của Ngài cũng không cần, nhường cho kẻ khác. Thành là thành trì, tài sản của mình cũng nhường cho kẻ khác. Vợ thì mọi người rất khó xả bỏ, Ngài cũng có thể xả bỏ tặng cho người. Con, cũng có thể tặng cho người. Nội tài là đầu mắt não tủy Ngài có thể bố thí ; ngoại tài là quốc thành thê tử Ngài cũng có thể bố thí. Có người cần chăng ? Ngài đều bố thí cho. Vì thế, không ai có thể sánh được với Ngài, không ai có thể hy sinh được như Phật. Cho nên Phật tu đạo Bồ đề là làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn, những việc mà người ta không thể nhẫn Ngài đều có thể nhẫn.

 

Nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật : Ngài trồng nhân đã được viên mãn cho nên quả báo cũng được viên mãn thành tựu, vì thế thành tựu Phật quả. thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn : Sau khi đã thành Phật, những chúng sanh cần giáo hóa đều giáo hóa xong, Ngài nhập Niết bàn. Thế nào là Niết bàn ? Niết bàn là không sanh không diệt, không có sanh tử, liễu thoát sanh tử.

 

Chánh pháp tượng pháp : khi Ðức Phật còn tại thếthời kỳ chánh pháp ; thời kỳ chánh pháp mọi người đều tu hành, mọi người đều có thiền định, đều sẽ khai ngộ. Thời đó tu hành thì sẽ chứng quả ; chứng quả thì sẽ liễu thoát sanh tử. Thời kỳ tượng pháp, thì chỉ có hình tượng, người không chân chánh tu hành. Thời kỳ chánh pháp thì thiền định kiên cố, vừa ngồi thì có thể nhập định, còn đến đời tượng pháp thì sao ? Chỉ là da bên ngoài, chính là chùa chiền kiên cố ; lúc đó mọi người đều ưa thích xây dựng chùa chiền, tạo tượng Phật, nên gọi là thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ chánh pháp một ngàn năm, tượng pháp cũng một ngàn năm, nay là thời đại mạt pháp. Mạt pháp chính là pháp đã ở trên đầu ngọn cây, nên vô cùng nhỏ bé, ít ỏi. Chánh pháp chính là thời kỳ gốc cây ; tượng phápthời kỳ cành cây ; còn mạt pháp thì đã lên ngọn cây. Thời kỳ mạt pháp có bao lâu ? thời kỳ mạt pháp là một vạn năm. Vì thế trừ đi hiện tại, còn hơn tám ngàn năm đều là thời kỳ mạt pháp.

Nhưng trong thời kỳ mạt pháp, nếu có người chân chánh tu hành, thì đó là chánh pháp trong thời mạt pháp ; thời kỳ mạt pháp có người ham thích xây dựng chùa chiền, tu sửa chùa chiền, tạo tượng Phật, đó là tượng pháp trong thời mạt pháp ; vậy nếu trong thời mạt pháp không có người tu hành, cũng không có người tạo tượng Phật, xây dựng chùa chiền, thì thật đúng là thời kỳ mạt pháp.

Ðến khi pháp sắp diệt, tất cả kinh Phật đều hủy diệt, chỉ còn bộ "kinh A Di Ðà" vẫn còn tồn tại trên thế giới này. "Kinh A Di Ðà" còn trụ trên thế giới này năm trăm năm, rồi sau đó ngay cả "Kinh A Di Ðà" cũng không còn, lúc đó chỉ còn một câu "A Di Ðà Phật". Câu danh hiệu "A Di Ðà Phật" lại trụ trên thế gian một trăm năm độ vô lượng chúng sanh, sau đó Phật pháp sẽ không còn nữa, không ai biết được câu niệm Phật, cái gì cũng không hiểu. Chúng ta hiện nay vẫn là thời tốt, tuy ở thời kỳ mạt pháp vẫn có thể dụng công tu hành.

Cho nên nay là chánh pháp tượng pháp giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp : thời kỳ chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp mà thôi.

 

Hữu giáo vô nhân : Thời kỳ mạt phápPhật giáo tồn tại, nhưng không có người tu hành ; ngôn hạnh của người tu hành đều trái ngược với giáo nghĩa của Phật giáo. Người xuất gia vốn không nên ăn thịt, uống rượu, có nữ nhân, nhưng họ lại phạm vào những việc này giống như người tại gia, đó có nghĩa là không còn pháp nữa. Hữu giáo có nghĩa là còn có danh từ Phật giáo, nhưng không có người tu hành. "Hữu nhân" là người tu hành chân chánh, không nhất định nói là người hoằng pháp. Không có người tu hành chân chánh, làm gì có người hoằng pháp ? tự nhiên sẽ không có. Thời này thì như thế nào ? Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện : như những người mạo hiểm để cầu lợi danh, những người xuất gia mà không làm việc xuất gia, đó đều là tà chánh không phân. Ví dụ có một vài ngoại đạo, họ cho rằng : "Ðây cũng là lễ Quán Âm mà ! cũng là bái Quan Ðế mà ! lại là lễ cái gì cái gì, v.v…", những điều như thế. Họ không biết cái nào là tà ? cái nào là chánh ? tà chánh không phân, thị phi cũng không biện biệt được.

 

Cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh : Thường tranh hơn thua, yếu mạnh, cạnh tranh nhân ngã thị phi, đều tranh danh tranh lợi, không phải chấp trước vào danh thì chấp vào lợi, cứ mãi chạy theo danh lợi. Cử mục thao thao, thiên hạ giai thị : mở mắt ra mà nhìn, khắp thiên hạ đều là như thế, thao thao vô tận như biển cả mênh mông bát ngát, những người này đều làm những việc danh lợi, đeo đuổi danh lợi, vì thế những vị theo tôi xuất gia, mà còn chạy theo danh lợi thì tuyệt đối không thể được ! Quyết không nên chung dòng nhơ bẩn, cùng một giuộc xấu xa. Chúng ta tuy ở trong thời đại mạt pháp, nhưng quyết làm một người đệ tử Phật chân chánh.

 

Bất tri Phật thị hà nhân? : không biết Phật là gì ? Pháp thị hà nghĩa? : Pháp có nghĩa là muốn người dứt các điều ác, tăng trưởng điều lành, sửa đổi lỗi lầm, làm mới cuộc đời, muốn người hiểu rõ, nhưng mà họ không hiểu, càng học càng hồ đồ, càng học càng không hiểu biết. Tăng thị hà danh? : Tăng có nghĩa là gì ? Ngay Phật Pháp Tăng tam bảo mà cũng không biết. Thế nào là Tăng ? không phải một người gọi là Tăng, mà bốn người trở lên mới được gọi là Tăng. Người thường cho rằng một người cũng gọi là Tăng, đó là sai lầm ; Tăng là mọi người cùng hòa hợp với nhau, lục hòa đồng trụ.

 

Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! : Ngay cả Phật Pháp Tăng cũng không hiểu, suy tàn đến mức này khiến cho tôi thật nói không nên lời, tôi không có cách nào nói ra được. Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ : Mỗi khi nghĩ đến việc này, lệ rơi như mưa, lệ rơi như suối.

 

Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân : ta là người xuất gia, là đệ tử của Phật, mà không thể báo đáp ân đức của Ngài. Nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân : đối với bên trong mà nói, ta không có nỗ lực tu hành, đối với mình không có lợi ích ; bên ngoài cũng không lợi ích cho người. Sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu : Khi ta còn sống thì vô ích đương thời; khi chết rồi cũng không có gì ích lợi cho mai sau. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã : Trời tuy cao, cũng không dung chứa được ta ở giữa trời đất. Ðịa tuy hậu, bất năng tải ngã : Ðất tuy dày, ta cũng không có tư cách ở giữa trời đất, cùng trời đất dung hợp. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy? Tội nhân cực trọng nhất, ngoài ta ra thì là ai ? Không phải là người khác mà chính là ta. Ðây là Ðại sư Tỉnh Am dạy người xuất gia chúng ta đều phải hồi quang phản chiếu, cần phải sám hối ; không phải ta thì là ai, đó không phải người khác, mà chính là ta. Cho nên chúng ta là người xuất gia cần phải ghi nhớ không nên tật đố chướng ngại người khác.

 

Nguyên văn:

由 是痛不可忍,計無所出;頓忘鄙陋,忽發大心。雖不能挽回末運於此時,決當圖護持正法於來世。是故偕諸善友,同到道場;述為懺摩,建茲法會。發四十八之大 願,願願度生;期百千劫之深心,心心作佛。從於今日,盡未來際,畢此一形,誓歸安養,既登九品,回入娑婆。俾得佛日重輝,法門再闡。僧海澄清於此界,人民 被化於東方,劫運為之更延,正法得以久住。此則區區真實苦心。是為發菩提心第十因緣也。

Âm Hán Việt:

Do thị thống bất khả nhẫn, kế vô sở xuất; đốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm. Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời, quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế. Thị cố giai chư thiện hữu, đồng đáo đạo tràng; thuật vi sám ma, kiến tư pháp hội. Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh; kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật. Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng, ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà. Tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển, tăng hải trừng thanh ư thử giới, nhân dân bị hóa ư Ðông phương, kiếp vận vi chi cánh diên, chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ. Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên dã.

Dịch:

Vì thế mà đau lòng không thể nhẫn nổi, nhưng suy nghĩ thì lại không thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay tư cách quê mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể vãn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ trì chánh pháp trong mai sau. Vì thế nên cùng với chư thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, phát bốn mươi tám điều đại nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật, từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc, lên chín phẩm xong thì trở lại Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp rạng soi, pháp môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở cõi này, dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông, vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do đó được tồn tại lâu dài. Ðây là tấm lòng khổ tâm chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó là nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.

 

Giảng:

Do thị thống bất khả nhẫn : Nói đến đây ta thật đau lòng không thể nhẫn nỗi ! nhẫn việc khó nhẫn, nhưng cũng không thể nhẫn được. Kế vô sở xuất : Ta cũng không có cách nào để trốn cho được nơi tụ hội của tội nghiệp. Ðốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm : Vì thế lập tức quên đi mình tệ lậu hèn kém như thế, bèn phát tâm Bồ đề rộng lớn. Ta không thể làm kẻ tội nhân đại cực ác như thế, ta cần phải phát tâm Bồ đề rộng lớn !

 

Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời : Tuy ta phát tâm Bồ đề rộng lớn, không thể hoàn toàn vãn hồi cứu vớt khí số của thời mạt pháp, quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế : nhưng ta quyết phát nguyện trong thời vị lai hộ trì chánh pháp.

Tôi bảo với các ông, tại sao tôi phải trụ trì chánh pháp ? Vì đời đời kiếp kiếp tôi đều phát nguyện hộ trì chánh pháp, tôi quyết hành trì chánh pháp. Tôi từ vô lượng kiếp đến này phát cái nguyện này, cho nên tôi đến đây, nhất định cố gắng mà làm, tôi nhất định phải trụ trì chánh pháp. Bất quản là bao nhiêu khó khăn gian khổ, dù là có người mắng tôi, hủy báng tôi, tật đố tôi, chướng ngại tôi, tôi đều phải trụ trì chánh pháp. Chí nguyện này tôi quyết không bao giờ buông thả lơi là !

 

Thị cố giai chư thiện hữu : Vì thế tôi nay cùng với các bạn lành, đồng đáo đạo tràng : cùng đến Vạn Phật Thành. Ðến Vạn Phật Thành biết không ? Thuật vi sám ma, kiến tư pháp hội : Chúng ta đến chỗ này, tu Ðại Bi Sám Pháp. Quý vị có biết không ? đến Vạn Phật Thành chính là đạo trường, đạo trường chính là Vạn Phật Thành. Vạn Phật Thành chính là đạo trường của mỗi vị, quý vị cần phải ghi nhớ không nên chê bỏ đạo trường lớn của mình. Tại sao đạo trường lớn này là của quý vị ? Một mình tôi cũng không dùng cho hết đạo trường lớn như thế ! cho nên đây là của tất cả Phật giáo đồ toàn thế giới, không phải chỉ riêng mình tôi, tôi bất quá chỉ ở chỗ này ngày ngày xem nhà cửa giùm quý vị. Quý vị đều rất bận rộn, đều muốn làm hoàng đế, hoặc làm tổng thống ; đến mỗi chỗ mỗi nơi, hoạt động công tác của quý vị. Hoặc là làm ông chủ, hoặc là làm tổng giám đốc, hoặc là ở trong nhà làm ông chủ, mỗi người đều có chức vụ của mình; chỉ có tôi là người thất nghiệp, không có chức nghiệp gì, ở đây làm công cho quý vị, trông nhà cửa cho quý vị. Cho nên đợi quý vị làm hoàng đế, làm tổng thống, lúc đó quý vị cần phải phát tâm lớn để hộ trì Vạn Phật Thành. Nói : "Ô ! Thầy, Thầy cứ nói đùa hoài". Ông làm sao biết được sau này ông không làm tổng thống ? Ông làm sao biết được ông kiếp sau không làm hoàng đế ? Ông đời sau làm hoàng đế, vì ông phát nguyện : "Kiếp sau khi tôi làm hoàng đế, nhất định sẽ ủng hộ Vạn Phật Thành, ta dùng điện kim loan của ta tu sửa Vạn Phật Thành, dùng vàng xây dựng Phật điện nguy nga tráng lệ như điện kim loan". Ðây là điều không biết trước được, không thể đoán được. Cho nên đệ tử hoàng đế của tôi, nay ông không muốn trở về hoàng cung. Tôi hỏi ông, tam cung lục viện thì làm sao ? ông ta nói không quản đến, kêu cả tam cung lục viện đến Vạn Phật Thành. Kêu họ đến Vạn Phật Thành thì chỗ này biến thành một nơi tu hành học đạo ; cho nên đây là điều rất quan trọng.

Chúng ta sang năm từ ngày 21 tháng 7 âm lịch, buổi tối sái tịnh, ngày 22 chính thức cử hành thất Ðịa Tạng, niệm danh hiệu Bồ tát Ðịa Tạng, hoặc là niệm "Án ma ni bát di hồng". Trước kia chúng ta đã thử đả thất "Án ma ni bát di hồng", ngày đêm sáu thời, ba phiên thay đổi. Phiên thứ nhất niệm tám tiếng thì thay phiên khác, phiên này lại niệm tám tiếng rồi đổi phiên khác, cứ luân phiên đổi ca, trong bảy ngày thanh âm này không bao giờ gián đoạn. Sau khi viên mãn thất, tôi nhìn thấy những đứa bé Mỹ đều rất thích thú, rất có thành tâm, bèn viết một bài từ "Vũ Trụ Bạch" để làm kỷ niệm pháp hội đó. Vậy sang năm chúng ta cùng nghiên cứu, các ông muốn niệm "Án ma ni bát di hồng" cũng được, muốn niệm "Ðịa Tạng vương Bồ tát" cũng được, chúng ta dùng bảy ngày, một ngày sáu thời để niệm Phật. Lần trước không biết mỗi ca là tám giờ ? hay là mười hai giờ ? Tôi cũng không quản đến, tự họ niệm, tôi cũng không có tham gia.

Các ông không nên cho rằng ở đây, mỗi Phật sự tôi đều phải tham gia. Như có người nói : "A ! Chúng con ngồi thiền cũng không thấy Thầy đến ?". Ngày ngày tôi đều ở đây, ông nhìn không thấy thì lại trách ai ? Ông không có mắt, làm sao nhìn thấy được tôi ? Tôi đến ông cũng không biết. Vì bước chân tôi đi nhẹ không phát ra tiếng, tôi đi qua bên cạnh ông, ông cũng không biết. Không phải nói chuyện thần thoại, mà đích xác là như thế ! Lại cho rằng không nhìn thấy tôi. Không nhìn thấy tôi ? ông đến đây vậy ông nhìn thấy ai ?

Vậy ngày 22 bắt đầu đả thất Ðịa Tạng, ngày 22, 23, 24, 25, 26, 27 ; ngày 27 thì viên mãn. Ngày 28, 29, 30 mấy ngày này đều có bái Phật, có niệm Phật. Chúng ta pháp hội lần này khoảng mười ngày, mười một ngày. Nếu các ông ai hoan hỷ đến, một mình đến cũng tốt, đoàn thể đến cũng tốt ! Nhưng khi đến nhất định phải thông báo trước cho chúng tôi để chúng tôi chuẩn bị chỗ ở, bố trí các ông đến đây dụng công biện đạo. Ðiều này rất cần thiết, không nên thình lình mà đến, khiến chúng tôi không có thời gian bố trí sắp đặt. Trong thời gian đả thất, chúng tôi càng không thể đi đón người, cũng không thể đưa tiễn người.

Cho nên trong Vạn Phật Thành của chúng ta, sau này bất luận ai đến chúng ta cũng không tiếp cũng không đưa, đều xem như người nhà đến chỗ này. Nếu như chúng tôi tiếp rước, đưa tiễn, thì lãng phí rất nhiều thời gian của người dụng công tu hành học đạo ở đây, làm cho ông không có công đức. Vì để thành tựu công đức của quý vị, chúng ta hai bên cần phải yên ổn vô sự ; đều là người nhà, không nên khách sáo. Ðiểm này hy vọng quý vị đặc biệt chú ý.

Quan trọng nhất là người hút thuốc khi đến chỗ này, cũng phải đi khám sức khỏe, quăng bỏ tất cả thuốc hút gì đó trên máy bay, không nên đem đến Vạn Phật Thành. Ðem đến Vạn Phật Thành, dù ông không hút thuốc, cũng cho Vạn Phật Thành xông nồng mùi thuốc lá, thật không chịu nỗi. Chúng tôi thật chịu không nỗi mùi thuốc ! Tôi có lúc giống như nói đùa vậy, như nói người của Vạn Phật Thành giống như rắn vậy, rất sợ thuốc, lại giống như con sâu vậy, những con sâu này, khi ông vừa hút thuốc nó liền chạy hết. Cho nên chúng tôi ở đây đều là những con sâu nhỏ, con kiến nhỏ, con muỗi, con ruồi, ở chỗ này ong ong vo ve. Vậy quý vị khi đến đây ghi nhớ không nên bắt nạt ăn hiếp chúng tôi là những con sâu nhỏ.

Khi soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, cần phải Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh : mỗi nguyện đều là hóa độ chúng sanh. Kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật : Chúng ta dùng thâm tâm trong thời gian trăm ngàn muôn kiếp, dùng tâm này làm cái gì ? Chính là muốn thành Phật.

 

Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế : Từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng : đời này nguyện sanh thế giới Cực lạc. Chính là khi ta mạng chung nhất định sanh vào thế giới Cực lạc. "An dưỡng" chính là thế giới Cực lạc.

 

Ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà : Ðã lên chín phẩm, hoa nở thấy Phật, sau khi thấy Phật thì trở lại thế giới Ta bà, tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển : khiến cho mặt trời Phật pháp lại huy hoàng sáng chói, pháp môn lần nữa xiển dương rộng mở. Tăng hải trừng thanh ư thử giới : chư Tăng đều trừng thanh, thanh tịnh, chẳng có những người không tu hành. Nhân dân bị hóa ư Ðông phương : tất cả nhân dân đều được Phật giáo hóa, được giáo hóa nơi cõi Ðông phương. Kiếp vận vi chi cánh diên : Chánh pháp của Phật vì đó được kéo dài thêm nữa. Không phải nói kiếp vận kéo dài mà là chánh pháp kéo dài, kiếp vận sẽ không còn nữa. Chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ : nếu người người đều tu hành dụng công biện đạo, người người đều không có lòng ích kỷ, không có tâm cầu danh cầu lợi, không có tham tâm, không có những dục niệm, đó chính là chánh pháp tồn tại lâu dài.

 

Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm : Ðại sư Tỉnh Am nói, đây là sự khổ tâm nhỏ bé của tôi. Vì Ngài khiêm nhường cho nên nói nhỏ bé, vi tế, không có sức mạnh gì, là khổ tâm chân thành nhỏ bé yếu ớt.

 

Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên : Ðây là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm Bồ đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17104)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38672)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21933)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 22012)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69822)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6888)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38747)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 44019)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 44104)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42922)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44433)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 23083)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39222)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21737)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42406)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35615)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46531)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 30159)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30831)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26197)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20365)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25578)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18492)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17125)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40780)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21724)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25928)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41441)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24915)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23786)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 15063)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19975)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37834)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19092)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17697)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23537)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36330)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40380)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19506)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21712)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46183)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35948)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28639)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28890)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32198)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26308)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33433)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24083)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24823)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54532)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant