Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Đại sư Hám Sơn

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10538)
04. Đại sư Hám Sơn

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ĐẠI SƯ HÁM SƠN  

Mình sinh ra và lớn lên, mỗi người đều có những khoảng đường riêng, như bị một loại định mệnh chi phối. Một loại định mệnh không do ông trời sắp đặt, không do thượng đế ban cho, mà do hành động và những thói quen mình đã gầy ra trong quá khứ.

Những thói quen, mà cái quả của nó đã thành định nghiệp, tức NHÂN đã có, DUYÊN đã đủ, thì mình không thể thay đổi gì nữa.[01] Đại sư Hám Sơn ra đời với một điềm mộng : Bồ tát Quán Thế Âm mang đến một đứa trẻ, mẹ Sư ôm vào lòng và sinh ra Sư. Cội từ bi đã khai hoa nở nhụy. Đứa con của lòng từ, ắt hẳn phải theo con đường từ bi hỉ xả. Một tuổi, Đại sư đau nặng, bà phải phát nguyện đưa con vào chùa. Định nghiệp tu hành, con đường của bậc Long tượng, lần nữa lại được xác định.

Tôi sinh ra ở Toàn Tiêu thuộc Nam Kinh. Mẹ tôi là một Phật tử mộ đạo, suốt đời bà thờ Bồ tát Quán Thế Âm. Một hôm bà nằm mộng thấy Bồ tát dắt đến một đứa bé, bà ôm vào lòng, sau đó sinh ra tôi. Nhưng được một tuổi thì tôi đau nặng. Sợ con qua không khỏi, bà cầu Quán Thế Âm và hứa, nếu tôi hết bệnh bà sẽ cho tôi vào chùa làm tăng. Vì thế, khi tôi hồi phục, bà ghi tên tôi vào chùa Trường Thọ.

Liễu thoát sinh tử là một trong những đích nhắm của người tu Phật. Đó là việc đã được huân tập từ bao kiếp trước, nên trong cái tuổi đáng nhẽ chỉ biết chơi đùa vô tư vòi vĩnh mẹ cha, Sư lại chú tâm vào việc sống chết. Sống từ đâu có và chết sẽ đi về đâu? 

Năm lên 7, mẹ cho tôi đi học. Một lần đi về, thấy cậu nằm bất động trên giường, tôi hỏi thì mẹ trả lời “Cậu ngủ”. Nhưng tôi gọi cậu mấy lần, cậu vẫn nằm yên. Còn mợ tôi thì gào thét “Trời ơi! mình đi đâu rồi hở mình?”. Bàng hoàng, tôi hỏi “Cậu nằm đó sao mợ nói đi đâu?” Lúc đó mẹ mới nói thật “Cậu con chết rồi”. Tôi hỏi bà “Chết đi về đâu?”. Bà lắc đầu. Từ đó câu hỏi ấy bám chặt vào tâm trí tôi.

Ít lâu sau, mợ tôi sinh được một em bé. Lần đầu tiên đến thăm, tôi hỏi “Đứa bé này vào bụng mợ bằng cách nào?”. Mẹ tôi cười “Vớ vẩn! Thế mày vào bụng mẹ bằng cách nào?”. Sanh tử trở thành mối nghi rất lớn đè nặng tâm trí tôi.

Tình thương của mẹ đối với con là vô bờ. Nhưng cách thể hiện thì không như nhau. Có thứ khiến con trẻ hư hoại bê tha. Có thứ khiến con trẻ đắm chìm trong tình cảm thường tình. Có thứ khiến con trẻ vững vàng rắn rỏi. Túc duyên sâu dày, căn khí thượng thừa sẵn đủ, nên mẹ là hiện thân trợ cho căn duyên đời trước có điều kiện đâm chồi, Tổ thầy là hiện thân trợ cho căn khí thượng thừa được mãi xum xoe, kết lá ra hoa, che mát chúng hữu tình. 

Năm tôi lên 8, để tiện cho việc học hành, Tôi được gởi qua ở nhờ nhà một người bà con cách đó một con sông. Mẹ tôi cho tôi về nhà thăm bà một tháng một lần. Sau ngày nghỉ thường lệ, tôi không muốn trở lại trường và nói với bà “Con không muốn xa mẹ”. Bà nổi xung thiên, đánh và đuổi tôi ra tận bờ sông. Nhưng tới đó, tôi vẫn bám chặt lấy bà. Đang cơn giận, bà túm tóc tôi ném xuống sông rồi bỏ đi thẳng. Khi tôi thoát chết về được đến nhà, bà hét lớn “Để cái đồ vô tích sự đó sống làm gì, thà để nó chết đi còn hơn”. Bà lại đánh và đuổi tôi. Tôi thấy mẹ quá nghiêm khắc và tàn nhẫn, nên quyết từ rày về sau không về nhà nữa. 

Sau này tôi mới biết, bà đã nhiều lần đứng khóc ở bờ sông và nói với ngoại ‘Con phải làm cho nó vượt qua cái tính đa cảm thường tình, để nó có thể học hành nghiêm túc”. 

Năm lên 9, tôi được gởi vào chùa đi học. Khi nghe tụng đến phẩm Phổ Môn, biết Quán Thế Âm có thể cứu độ muôn loài thoát khỏi khổ đau, tôi rất phấn khích. Một lần theo mẹ đến chùa lễ tạ Bồ tát, tôi hỏi “Mẹ có biết kinh của Bồ tát Quán Thế Âm không?”. Bà lắc đầu. Tôi lập tức tụng cho bà nghe. Giọng tôi lúc đó cứ như một ông tăng già, khiến bà thích thú vô cùng. Bà hỏi “Con đã học ở đâu?”. Tôi trả lời là tôi đã mượn kinh về tự nghiên cứu tụng lấy. 

Năm tôi lên 10, bị mẹ ép học quá, tôi buồn lắm. Một lần hỏi bà : Vì sao con phải đi học?

- Để có được một địa vị trong xã hội
- Vậy sau này con được địa vị gì?
- Bắt đầu có thể chỉ là một địa vị thấp. Nhưng có thể sau đó sẽ lên chức tể tướng. 
- Cho là con có thể trở thành tể tướng đi, nhưng sau đó thì sao?
- Người ta chỉ có thể lên tới đó mà thôi. 
- Nhưng làm một công chức cao cấp thì có ích gì? Làm việc cực khổ cả đời để chẳng được gì thì thật vô ích. Con muốn làm cái gì đó có giá trị vĩnh hằng.
- Trời đất! Một đứa con vô tích sự như mày, thì chắc chỉ làm được một ông tăng du phương mà thôi.
- Làm một tăng du phương thì có ích gì?
- Tăng là một đệ tử Phật. Ông muốn đi đâu trên thế gian này cũng được. Ông là một người tự do thật sự. Ở đâu, thiên hạ cũng cúng dườngphục dịch ông. 
Tôi thấy rất hứng khởi với việc đó, nên nói : Vậy thì hay lắm. Con muốn làm một ông tăng.
Bà lắc đầu : Ta e con không có tài cán đó.
Thấy tôi ngạc nhiên, bà giải thích : Trên thế gian này có rất nhiều trạng nguyên, nhưng Phật Tổ thì rất hiếm. Hàng tăng mà mẹ Đại sư muốn nói chính là hàng có chí nguyện làm Phật làm Tổ, lấy định tuệ nuôi sống tuệ mạng của mình. 

Nghe vậy tôi quả quyết : Con có khả năng đó, chỉ sợ mẹ không cho con đi.

Bà hứa : Nếu con có khả năng, ta sẽ cho con theo đường của con.

Tôi nuôi trong lòng lời hứa đó của mẹ.
Năm tôi 11 tuổi, thấy gần nhà có vài người đầu đội nón lá, trên vai chất đầy vật dụng, tôi liền hỏi mẹ : Mấy người đó là ai?

- Là những tăng sĩ du phương

Nghe vậy, tôi rất thích. Tôi quan sát kỹ mọi thứ. Họ đặt gánh xuống, rồi nghỉ ở một gốc cây bên đường. Một người hỏi mẹ “Có thể kiếm đâu ra thức ăn thưa bà?”. Mẹ trả lời “Xin chờ, tôi sẽ nấu cơm cúng dường”. Rồi bà phục dịch các tăng sĩ với tất cả sự tôn kính của mình.

Ăn xong, các tăng nhân quảy gánh lên vai. Họ dơ một tay lên chào từ biệt và định nói một cái gì đó. Nhưng mẹ vội nói “Xin đừng cám ơn”. Tôi thì không mấy vừa lòng về thái độ từ biệt của mấy ông tăng, tôi nói với mẹ “Mấy ông tăng này quá vô lễ. Không chào hỏi lấy một lời mà đã bỏ đi”. Bà giải thích “Nếu họ cảm ơn, ta sẽ được ít phước hơn với việc cúng dường của mình”. Lúc đó, tôi càng thấy ưu thế của hàng tu sĩ. Cuộc gặp gỡ khiến quyết định làm tăng của tôi càng mạnh mẽ. Nhưng trở ngại duy nhất của tôi lúc này là tôi chưa có cơ hội.

Rồi thời cơ cũng đến. Năm tôi 12 tuổi, nghe ở chùa Báo Ân có một cao tăng tên là Tây Lâm, tôi thưa với cha mình muốn đến đó. Cha không cho đi, nhưng mẹ lý luận “Tốt hơn, nên để cho con theo ý nguyện của nó. Giúp nó thực hiện hơn là ngăn cản”. Và thế là tôi được gởi đến chùa Báo Ân.

Ngay khi thấy tôi, Đại sư liền nói “Thằng bé này không phải thường. Nếu để nó trở thành một ông tăng bình thường thì thật là phí”. Rồi thầy dẫn tôi đến tự viện. Lúc ấy thầy Vô Cực đang thuyết pháp. Thầy Triệu Văn Túc rất thích khi trông thấy tôi, ngài nói “Thằng nhỏ sau này sẽ thành bậc thầy của trời người”. Rồi ngài hỏi tôi “Con thích làm quan hay làm Phật?” Tôi trả lời “Dĩ nhiên là làm Phật”. Ngài cười và quay lại nói với những tăng sĩ khác “Không được coi thường đứa bé này, phải dạy dỗ nó cẩn thận”. Lúc đó tuy không hiểu thầy Vô Cực giảng gì dù chỉ một chữ, tôi vẫn thấy tha thiết và nhiệt thành như thể tôi đang hiểu một thứ gì đó mà không thể bày tỏ bằng lời.

Khi tôi được 19 tuổi, bạn tôi nhiều đứa đã đậu kỳ thi hương. Khi nghe các bạn thúc tôi đi thi, thầy Vân Cư đã khuyến khích tôi tu đạo và nổ lực tham thiền. Thầy kể tôi nghe về hành trạng của rất nhiều cao tăng thời trước, và đưa cho tôi quyển Cao Tăng Truyện. Sau khi đọc xong Trung Phong TruyệnCao Tăng Truyện, tôi cảm động “Đây chính là điều mình muốn làm”. Rồi tôi quyết định hiến đời mình cho đạo Phật từ đó, và xin Đại sư thí phát.

Gạt bỏ thế sự và việc học hành, tôi tập trung cho việc nghiên cứu thiền nhưng chẳng đến đâu. Tôi bắt đầu chuyên tâm niệm danh hiệu đức A Di Đà ngày đêm không gián đoạn. Không bao lâu, tôi nằm thấy ngài hiện ra trong giấc mộng. Ngài ngồi trên trời cao và hướng về phía mặt trời lặn, gương mặt từ bi linh động trong sáng. Tôi phục dưới chân ngài với tâm trạng khó tả. Khi tôi vừa nghĩ “Vậy còn Bồ tát Quán Thế ÂmĐại Thế Chí ở đâu”, liền thấy chư vị hiện ra. Nhờ giấc mơ đó tôi càng tin tưởng và nổ lực tiến tu. Tôi tin, việc tu hành của mình sẽ có kết quả tốt đẹp.

Mùa động năm ấy, tự viện chúng tôi mời thầy Vô Cực đến giảng Hoa Nghiêm. Khi giảng đến Thập Huyền Môn, hải ấn xum la thường trụ xứ, tôi bỗng nhận ra yếu chỉ pháp giới viên dung vô tận. Quá hăm mộ ngài Thanh Lương, người đã sáng lập tông Hoa Nghiêm, tôi lấy đó làm danh hiệu của mình, và lấy tên tự là Trừng Ấn.

Tôi trình bày chỗ nhận của mình lên thầy Vô Cực, thầy nói “Vậy là con muốn theo con đường Hoa Nghiêm. Nhưng con có biết vì sao ngài lại lấy tên là Thanh Lương? Vì ngài thường ở trên núi Thanh Lương. Mùa hè thì mát, mùa đông thì băng giá”. Từ đó, tôi cứ thấy thế giới kỳ diệu của băng tuyết hiện ra trước mắt. Tôi quyết tâm đến trụ ở ngọn núi ấy. Không gì trên thế gian có thể mê hoặc tôi được nữa. Cái khao khát lìa bỏ thế giới này không ngừng sống dậy trong tôi.

Khi tôi 20 tuổi thì Đại sư qua đời. Trước khi thị tịch ngài gọi môn chúng lại và nói “Ta đã 83 tuổi, chẳng bao lâu sẽ rời bỏ cõi đời này. Ta có khoảng 80 đệ tử nhưng kẻ nối pháp của ta chính là Hám Sơn. Sau khi ta đi các con phải nghe lệnh chú ấy. Đừng lơ là mệnh lệnh chỉ vì vấn đề tuổi tác”. Ngài cho họp tất cả tăng chúng, tập trung niệm danh hiệu A Di Đà trong suốt năm ngày liền. Tràng hạt trong tay, ngài ngồi kiết già, bình tĩnh niệm danh hiệu Di Đà rồi thoát. Không lâu sau, căn phòng ấy bị cháy rụi, như thể báo một điềm gì đó cho các môn đồ.

Vào tháng 10 năm đó, thầy Vân Cốc mở Thiền hội. Nhờ sự tiến cử của thầy, tôi được nhập hội. Thoạt đầu tôi không biết phải dụng công thế nào và rất khổ sở với sự vô minh của mình. Sau khi đốt hương dâng thầy, xin thầy chỉ dạy, tôi thiền định suốt ba tháng liền. Suốt thời kỳ này, tôi không chú ý tới bất cứ ai trong hội hoặc bất cứ gì xảy ra quanh tôi. Phần tiếp theo, nói về quá trình tu tập thiền định và những cảnh giới tự tâmĐại sư Hám Sơn đã chứng nhập, thuộc phần công phu tu chứng, nên không trích ra đây.

Năm 40 tuổi, tôi bắt đầu đọc Đại tạng, giải kinh Pháp Hoa và luận Đại Thừa Khởi Tín. Từ ngày rời Ngũ Đài Sơn, tôi đã có ý định về thăm song thân, nhưng lại sợ những hệ lụy thế gian làm mờ mắt, nên hơi do dự. Nhưng trong khi thiền định, tôi đã làm bài kệ :

Ngày ngày sóng nổi ngập thái không
Chim cá cùng bơi một kính trong
Đêm qua trăng bỗng rụng bên trời
Sáng bừng như lẫn ngọc ly long

Vì thế, tôi gọi thị giả vào và bảo với ông ấy tôi đã có thể về quê thăm cha mẹ.

Ở quận nhà, chùa Báo Ân từ lâu vẫn muốn xin trọn một bộ Đại Tạng. Tôi đi Kinh Sư thỉnh kinh và về đến chùa Báo Ân tháng mười một. Trước khi bộ Đại tạng về, trong chùa phát sáng mấy ngày. Kinh về đến nơi thì ánh sáng biến hình như một chiếc cầu vồng trải từ trời xuống đất. Người đến xem, mỗi ngày có đến vạn người.

Khi mẹ hay tin tôi về. Bà cho người đến hỏi khi nào tôi về thăm nhà. Tôi trả lời “Triều đình phái con đi hộ tống kinh, không phải để về nhà. Nhưng nếu mẹ có thể tiếp con một cách vui vẻ không sầu thương như con chưa từng rời đi, thì con sẽ về nhà hai đêm”. Nghe vậy, bà nói “Cuộc gặp gỡ này giống như vừa tìm lại được người nhà trong một kiếp khác, làm sao mụ có thì giờ để khổ đau. Mụ rất hài lòng nếu gặp được con mình dù chỉ tích tắc. Hai đêm là quá nhiều so với sự mong mỏi của mụ”. Khi tôi về nhà, mẹ rất vui. Thật là ngạc nhiên!

Buổi chiều, họ hàng đến thăm, một người hỏi “Thầy đến bằng thuyền hay đường bộ?”. Mẹ lập tức trả lời “Nói vậy là ngụ ý gì?”. “Điều tôi thực sự muốn biết là thầy ấy từ đâu về”. Bà trả lời “Từ cái không về với chúng ta”.

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe bà nói vậy. Chẳng lạ gì bà cụ cho tôi đi tu. 

Rồi tôi hỏi mẹ : Từ khi con rời khỏi nhà, mẹ có nghĩ đến con?

Bà đáp : Dĩ nhiên là có, làm sao không được.

- Vậy mẹ làm gì để khuây khỏa?

- Thoạt đầu mụ không biết làm gì. Rồi nghe người ta nói con ở Ngũ Đài Sơn, mụ hỏi một thầy tăng “Nơi đó ở đâu?”, thầy bảo “Ngay dưới sao Bắc đẩu”. Mụ đảnh lễ sao bắc đẩu và niệm danh hiệu Bồ tát. Mụ thấy khuây khỏa và không còn nghĩ tới con nữa. Mụ nghĩ con đã chết. Mụ thấy không còn khổ não, không còn nghĩ đến con. Bây giờ mụ gặp con như thể trong một kiếp khác.

Sáng hôm sau, tôi đi thăm mộ tổ tiên và chọn địa điểm làm mộ cho song thân. Lúc đó cha tôi đã 80 tuổi. Tôi nói đùa “Hôm nay con đào huyệt cho cha, giúp cha không phải trở lại thế gian này nữa”. Vừa nói tôi vừa gõ cuốc xuống đất. Mẹ tôi giựt cuốc khỏi tay tôi và nói “Để mụ tự đào mồ lấy, không cần ai lo cho mụ”. Rồi bà bắt đầu đào huyệt một cách vui vẻ.

Tôi từ giã gia đình sau đó ba hôm. Khi tiễn đưa, mẹ tôi vẫn vui vẻ. Đến lúc đó, tôi mới hiểu, bà là một người rất khác thường.

(Phần tự thuật của Đại sư Hám Sơn, lược trích trong Thiền Đạo Tu Tập của Chang Chen Chi)  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14565)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11842)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14361)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13275)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12647)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25248)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27887)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26363)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17233)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15918)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22140)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17133)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24909)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21970)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19069)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16173)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21725)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16785)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14667)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16705)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18777)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14376)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16616)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12926)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14947)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14605)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28033)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27199)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14347)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20967)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24182)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28688)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14736)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13291)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16458)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27244)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16078)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21497)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12378)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant