Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Đại sư Hám Sơn

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10541)
04. Đại sư Hám Sơn

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ĐẠI SƯ HÁM SƠN  

Mình sinh ra và lớn lên, mỗi người đều có những khoảng đường riêng, như bị một loại định mệnh chi phối. Một loại định mệnh không do ông trời sắp đặt, không do thượng đế ban cho, mà do hành động và những thói quen mình đã gầy ra trong quá khứ.

Những thói quen, mà cái quả của nó đã thành định nghiệp, tức NHÂN đã có, DUYÊN đã đủ, thì mình không thể thay đổi gì nữa.[01] Đại sư Hám Sơn ra đời với một điềm mộng : Bồ tát Quán Thế Âm mang đến một đứa trẻ, mẹ Sư ôm vào lòng và sinh ra Sư. Cội từ bi đã khai hoa nở nhụy. Đứa con của lòng từ, ắt hẳn phải theo con đường từ bi hỉ xả. Một tuổi, Đại sư đau nặng, bà phải phát nguyện đưa con vào chùa. Định nghiệp tu hành, con đường của bậc Long tượng, lần nữa lại được xác định.

Tôi sinh ra ở Toàn Tiêu thuộc Nam Kinh. Mẹ tôi là một Phật tử mộ đạo, suốt đời bà thờ Bồ tát Quán Thế Âm. Một hôm bà nằm mộng thấy Bồ tát dắt đến một đứa bé, bà ôm vào lòng, sau đó sinh ra tôi. Nhưng được một tuổi thì tôi đau nặng. Sợ con qua không khỏi, bà cầu Quán Thế Âm và hứa, nếu tôi hết bệnh bà sẽ cho tôi vào chùa làm tăng. Vì thế, khi tôi hồi phục, bà ghi tên tôi vào chùa Trường Thọ.

Liễu thoát sinh tử là một trong những đích nhắm của người tu Phật. Đó là việc đã được huân tập từ bao kiếp trước, nên trong cái tuổi đáng nhẽ chỉ biết chơi đùa vô tư vòi vĩnh mẹ cha, Sư lại chú tâm vào việc sống chết. Sống từ đâu có và chết sẽ đi về đâu? 

Năm lên 7, mẹ cho tôi đi học. Một lần đi về, thấy cậu nằm bất động trên giường, tôi hỏi thì mẹ trả lời “Cậu ngủ”. Nhưng tôi gọi cậu mấy lần, cậu vẫn nằm yên. Còn mợ tôi thì gào thét “Trời ơi! mình đi đâu rồi hở mình?”. Bàng hoàng, tôi hỏi “Cậu nằm đó sao mợ nói đi đâu?” Lúc đó mẹ mới nói thật “Cậu con chết rồi”. Tôi hỏi bà “Chết đi về đâu?”. Bà lắc đầu. Từ đó câu hỏi ấy bám chặt vào tâm trí tôi.

Ít lâu sau, mợ tôi sinh được một em bé. Lần đầu tiên đến thăm, tôi hỏi “Đứa bé này vào bụng mợ bằng cách nào?”. Mẹ tôi cười “Vớ vẩn! Thế mày vào bụng mẹ bằng cách nào?”. Sanh tử trở thành mối nghi rất lớn đè nặng tâm trí tôi.

Tình thương của mẹ đối với con là vô bờ. Nhưng cách thể hiện thì không như nhau. Có thứ khiến con trẻ hư hoại bê tha. Có thứ khiến con trẻ đắm chìm trong tình cảm thường tình. Có thứ khiến con trẻ vững vàng rắn rỏi. Túc duyên sâu dày, căn khí thượng thừa sẵn đủ, nên mẹ là hiện thân trợ cho căn duyên đời trước có điều kiện đâm chồi, Tổ thầy là hiện thân trợ cho căn khí thượng thừa được mãi xum xoe, kết lá ra hoa, che mát chúng hữu tình. 

Năm tôi lên 8, để tiện cho việc học hành, Tôi được gởi qua ở nhờ nhà một người bà con cách đó một con sông. Mẹ tôi cho tôi về nhà thăm bà một tháng một lần. Sau ngày nghỉ thường lệ, tôi không muốn trở lại trường và nói với bà “Con không muốn xa mẹ”. Bà nổi xung thiên, đánh và đuổi tôi ra tận bờ sông. Nhưng tới đó, tôi vẫn bám chặt lấy bà. Đang cơn giận, bà túm tóc tôi ném xuống sông rồi bỏ đi thẳng. Khi tôi thoát chết về được đến nhà, bà hét lớn “Để cái đồ vô tích sự đó sống làm gì, thà để nó chết đi còn hơn”. Bà lại đánh và đuổi tôi. Tôi thấy mẹ quá nghiêm khắc và tàn nhẫn, nên quyết từ rày về sau không về nhà nữa. 

Sau này tôi mới biết, bà đã nhiều lần đứng khóc ở bờ sông và nói với ngoại ‘Con phải làm cho nó vượt qua cái tính đa cảm thường tình, để nó có thể học hành nghiêm túc”. 

Năm lên 9, tôi được gởi vào chùa đi học. Khi nghe tụng đến phẩm Phổ Môn, biết Quán Thế Âm có thể cứu độ muôn loài thoát khỏi khổ đau, tôi rất phấn khích. Một lần theo mẹ đến chùa lễ tạ Bồ tát, tôi hỏi “Mẹ có biết kinh của Bồ tát Quán Thế Âm không?”. Bà lắc đầu. Tôi lập tức tụng cho bà nghe. Giọng tôi lúc đó cứ như một ông tăng già, khiến bà thích thú vô cùng. Bà hỏi “Con đã học ở đâu?”. Tôi trả lời là tôi đã mượn kinh về tự nghiên cứu tụng lấy. 

Năm tôi lên 10, bị mẹ ép học quá, tôi buồn lắm. Một lần hỏi bà : Vì sao con phải đi học?

- Để có được một địa vị trong xã hội
- Vậy sau này con được địa vị gì?
- Bắt đầu có thể chỉ là một địa vị thấp. Nhưng có thể sau đó sẽ lên chức tể tướng. 
- Cho là con có thể trở thành tể tướng đi, nhưng sau đó thì sao?
- Người ta chỉ có thể lên tới đó mà thôi. 
- Nhưng làm một công chức cao cấp thì có ích gì? Làm việc cực khổ cả đời để chẳng được gì thì thật vô ích. Con muốn làm cái gì đó có giá trị vĩnh hằng.
- Trời đất! Một đứa con vô tích sự như mày, thì chắc chỉ làm được một ông tăng du phương mà thôi.
- Làm một tăng du phương thì có ích gì?
- Tăng là một đệ tử Phật. Ông muốn đi đâu trên thế gian này cũng được. Ông là một người tự do thật sự. Ở đâu, thiên hạ cũng cúng dườngphục dịch ông. 
Tôi thấy rất hứng khởi với việc đó, nên nói : Vậy thì hay lắm. Con muốn làm một ông tăng.
Bà lắc đầu : Ta e con không có tài cán đó.
Thấy tôi ngạc nhiên, bà giải thích : Trên thế gian này có rất nhiều trạng nguyên, nhưng Phật Tổ thì rất hiếm. Hàng tăng mà mẹ Đại sư muốn nói chính là hàng có chí nguyện làm Phật làm Tổ, lấy định tuệ nuôi sống tuệ mạng của mình. 

Nghe vậy tôi quả quyết : Con có khả năng đó, chỉ sợ mẹ không cho con đi.

Bà hứa : Nếu con có khả năng, ta sẽ cho con theo đường của con.

Tôi nuôi trong lòng lời hứa đó của mẹ.
Năm tôi 11 tuổi, thấy gần nhà có vài người đầu đội nón lá, trên vai chất đầy vật dụng, tôi liền hỏi mẹ : Mấy người đó là ai?

- Là những tăng sĩ du phương

Nghe vậy, tôi rất thích. Tôi quan sát kỹ mọi thứ. Họ đặt gánh xuống, rồi nghỉ ở một gốc cây bên đường. Một người hỏi mẹ “Có thể kiếm đâu ra thức ăn thưa bà?”. Mẹ trả lời “Xin chờ, tôi sẽ nấu cơm cúng dường”. Rồi bà phục dịch các tăng sĩ với tất cả sự tôn kính của mình.

Ăn xong, các tăng nhân quảy gánh lên vai. Họ dơ một tay lên chào từ biệt và định nói một cái gì đó. Nhưng mẹ vội nói “Xin đừng cám ơn”. Tôi thì không mấy vừa lòng về thái độ từ biệt của mấy ông tăng, tôi nói với mẹ “Mấy ông tăng này quá vô lễ. Không chào hỏi lấy một lời mà đã bỏ đi”. Bà giải thích “Nếu họ cảm ơn, ta sẽ được ít phước hơn với việc cúng dường của mình”. Lúc đó, tôi càng thấy ưu thế của hàng tu sĩ. Cuộc gặp gỡ khiến quyết định làm tăng của tôi càng mạnh mẽ. Nhưng trở ngại duy nhất của tôi lúc này là tôi chưa có cơ hội.

Rồi thời cơ cũng đến. Năm tôi 12 tuổi, nghe ở chùa Báo Ân có một cao tăng tên là Tây Lâm, tôi thưa với cha mình muốn đến đó. Cha không cho đi, nhưng mẹ lý luận “Tốt hơn, nên để cho con theo ý nguyện của nó. Giúp nó thực hiện hơn là ngăn cản”. Và thế là tôi được gởi đến chùa Báo Ân.

Ngay khi thấy tôi, Đại sư liền nói “Thằng bé này không phải thường. Nếu để nó trở thành một ông tăng bình thường thì thật là phí”. Rồi thầy dẫn tôi đến tự viện. Lúc ấy thầy Vô Cực đang thuyết pháp. Thầy Triệu Văn Túc rất thích khi trông thấy tôi, ngài nói “Thằng nhỏ sau này sẽ thành bậc thầy của trời người”. Rồi ngài hỏi tôi “Con thích làm quan hay làm Phật?” Tôi trả lời “Dĩ nhiên là làm Phật”. Ngài cười và quay lại nói với những tăng sĩ khác “Không được coi thường đứa bé này, phải dạy dỗ nó cẩn thận”. Lúc đó tuy không hiểu thầy Vô Cực giảng gì dù chỉ một chữ, tôi vẫn thấy tha thiết và nhiệt thành như thể tôi đang hiểu một thứ gì đó mà không thể bày tỏ bằng lời.

Khi tôi được 19 tuổi, bạn tôi nhiều đứa đã đậu kỳ thi hương. Khi nghe các bạn thúc tôi đi thi, thầy Vân Cư đã khuyến khích tôi tu đạo và nổ lực tham thiền. Thầy kể tôi nghe về hành trạng của rất nhiều cao tăng thời trước, và đưa cho tôi quyển Cao Tăng Truyện. Sau khi đọc xong Trung Phong TruyệnCao Tăng Truyện, tôi cảm động “Đây chính là điều mình muốn làm”. Rồi tôi quyết định hiến đời mình cho đạo Phật từ đó, và xin Đại sư thí phát.

Gạt bỏ thế sự và việc học hành, tôi tập trung cho việc nghiên cứu thiền nhưng chẳng đến đâu. Tôi bắt đầu chuyên tâm niệm danh hiệu đức A Di Đà ngày đêm không gián đoạn. Không bao lâu, tôi nằm thấy ngài hiện ra trong giấc mộng. Ngài ngồi trên trời cao và hướng về phía mặt trời lặn, gương mặt từ bi linh động trong sáng. Tôi phục dưới chân ngài với tâm trạng khó tả. Khi tôi vừa nghĩ “Vậy còn Bồ tát Quán Thế ÂmĐại Thế Chí ở đâu”, liền thấy chư vị hiện ra. Nhờ giấc mơ đó tôi càng tin tưởng và nổ lực tiến tu. Tôi tin, việc tu hành của mình sẽ có kết quả tốt đẹp.

Mùa động năm ấy, tự viện chúng tôi mời thầy Vô Cực đến giảng Hoa Nghiêm. Khi giảng đến Thập Huyền Môn, hải ấn xum la thường trụ xứ, tôi bỗng nhận ra yếu chỉ pháp giới viên dung vô tận. Quá hăm mộ ngài Thanh Lương, người đã sáng lập tông Hoa Nghiêm, tôi lấy đó làm danh hiệu của mình, và lấy tên tự là Trừng Ấn.

Tôi trình bày chỗ nhận của mình lên thầy Vô Cực, thầy nói “Vậy là con muốn theo con đường Hoa Nghiêm. Nhưng con có biết vì sao ngài lại lấy tên là Thanh Lương? Vì ngài thường ở trên núi Thanh Lương. Mùa hè thì mát, mùa đông thì băng giá”. Từ đó, tôi cứ thấy thế giới kỳ diệu của băng tuyết hiện ra trước mắt. Tôi quyết tâm đến trụ ở ngọn núi ấy. Không gì trên thế gian có thể mê hoặc tôi được nữa. Cái khao khát lìa bỏ thế giới này không ngừng sống dậy trong tôi.

Khi tôi 20 tuổi thì Đại sư qua đời. Trước khi thị tịch ngài gọi môn chúng lại và nói “Ta đã 83 tuổi, chẳng bao lâu sẽ rời bỏ cõi đời này. Ta có khoảng 80 đệ tử nhưng kẻ nối pháp của ta chính là Hám Sơn. Sau khi ta đi các con phải nghe lệnh chú ấy. Đừng lơ là mệnh lệnh chỉ vì vấn đề tuổi tác”. Ngài cho họp tất cả tăng chúng, tập trung niệm danh hiệu A Di Đà trong suốt năm ngày liền. Tràng hạt trong tay, ngài ngồi kiết già, bình tĩnh niệm danh hiệu Di Đà rồi thoát. Không lâu sau, căn phòng ấy bị cháy rụi, như thể báo một điềm gì đó cho các môn đồ.

Vào tháng 10 năm đó, thầy Vân Cốc mở Thiền hội. Nhờ sự tiến cử của thầy, tôi được nhập hội. Thoạt đầu tôi không biết phải dụng công thế nào và rất khổ sở với sự vô minh của mình. Sau khi đốt hương dâng thầy, xin thầy chỉ dạy, tôi thiền định suốt ba tháng liền. Suốt thời kỳ này, tôi không chú ý tới bất cứ ai trong hội hoặc bất cứ gì xảy ra quanh tôi. Phần tiếp theo, nói về quá trình tu tập thiền định và những cảnh giới tự tâmĐại sư Hám Sơn đã chứng nhập, thuộc phần công phu tu chứng, nên không trích ra đây.

Năm 40 tuổi, tôi bắt đầu đọc Đại tạng, giải kinh Pháp Hoa và luận Đại Thừa Khởi Tín. Từ ngày rời Ngũ Đài Sơn, tôi đã có ý định về thăm song thân, nhưng lại sợ những hệ lụy thế gian làm mờ mắt, nên hơi do dự. Nhưng trong khi thiền định, tôi đã làm bài kệ :

Ngày ngày sóng nổi ngập thái không
Chim cá cùng bơi một kính trong
Đêm qua trăng bỗng rụng bên trời
Sáng bừng như lẫn ngọc ly long

Vì thế, tôi gọi thị giả vào và bảo với ông ấy tôi đã có thể về quê thăm cha mẹ.

Ở quận nhà, chùa Báo Ân từ lâu vẫn muốn xin trọn một bộ Đại Tạng. Tôi đi Kinh Sư thỉnh kinh và về đến chùa Báo Ân tháng mười một. Trước khi bộ Đại tạng về, trong chùa phát sáng mấy ngày. Kinh về đến nơi thì ánh sáng biến hình như một chiếc cầu vồng trải từ trời xuống đất. Người đến xem, mỗi ngày có đến vạn người.

Khi mẹ hay tin tôi về. Bà cho người đến hỏi khi nào tôi về thăm nhà. Tôi trả lời “Triều đình phái con đi hộ tống kinh, không phải để về nhà. Nhưng nếu mẹ có thể tiếp con một cách vui vẻ không sầu thương như con chưa từng rời đi, thì con sẽ về nhà hai đêm”. Nghe vậy, bà nói “Cuộc gặp gỡ này giống như vừa tìm lại được người nhà trong một kiếp khác, làm sao mụ có thì giờ để khổ đau. Mụ rất hài lòng nếu gặp được con mình dù chỉ tích tắc. Hai đêm là quá nhiều so với sự mong mỏi của mụ”. Khi tôi về nhà, mẹ rất vui. Thật là ngạc nhiên!

Buổi chiều, họ hàng đến thăm, một người hỏi “Thầy đến bằng thuyền hay đường bộ?”. Mẹ lập tức trả lời “Nói vậy là ngụ ý gì?”. “Điều tôi thực sự muốn biết là thầy ấy từ đâu về”. Bà trả lời “Từ cái không về với chúng ta”.

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe bà nói vậy. Chẳng lạ gì bà cụ cho tôi đi tu. 

Rồi tôi hỏi mẹ : Từ khi con rời khỏi nhà, mẹ có nghĩ đến con?

Bà đáp : Dĩ nhiên là có, làm sao không được.

- Vậy mẹ làm gì để khuây khỏa?

- Thoạt đầu mụ không biết làm gì. Rồi nghe người ta nói con ở Ngũ Đài Sơn, mụ hỏi một thầy tăng “Nơi đó ở đâu?”, thầy bảo “Ngay dưới sao Bắc đẩu”. Mụ đảnh lễ sao bắc đẩu và niệm danh hiệu Bồ tát. Mụ thấy khuây khỏa và không còn nghĩ tới con nữa. Mụ nghĩ con đã chết. Mụ thấy không còn khổ não, không còn nghĩ đến con. Bây giờ mụ gặp con như thể trong một kiếp khác.

Sáng hôm sau, tôi đi thăm mộ tổ tiên và chọn địa điểm làm mộ cho song thân. Lúc đó cha tôi đã 80 tuổi. Tôi nói đùa “Hôm nay con đào huyệt cho cha, giúp cha không phải trở lại thế gian này nữa”. Vừa nói tôi vừa gõ cuốc xuống đất. Mẹ tôi giựt cuốc khỏi tay tôi và nói “Để mụ tự đào mồ lấy, không cần ai lo cho mụ”. Rồi bà bắt đầu đào huyệt một cách vui vẻ.

Tôi từ giã gia đình sau đó ba hôm. Khi tiễn đưa, mẹ tôi vẫn vui vẻ. Đến lúc đó, tôi mới hiểu, bà là một người rất khác thường.

(Phần tự thuật của Đại sư Hám Sơn, lược trích trong Thiền Đạo Tu Tập của Chang Chen Chi)  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4014)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3188)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7217)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5717)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 4062)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3164)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12348)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5215)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3955)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9347)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7621)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27214)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 6008)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5739)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6265)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5858)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5585)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7931)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4836)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12283)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21951)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6578)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7537)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6810)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6384)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8642)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6154)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5763)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14399)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20459)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 7021)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6923)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6472)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6569)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6101)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7523)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7484)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8633)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6563)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6960)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10586)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 20043)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30339)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16293)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19790)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11149)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14480)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7876)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10554)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 8014)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant