Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Tiểu Dẫn

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12253)
1. Tiểu Dẫn

KHUYÊN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM VĂN
Đại Sư Thật Hiền soạn
Việt dịch: Thích Trí Quang

TIỂU DẪN

Trong tam tạng, Bồ đề tâm được nói đến một cách trang trọng, không hơn thì bằng mà thôi, chứ không kém một pháp nào. Đặc biệt là nói chuyên về Bồ đề tâm thì kinh đã có, luận đã có, mà sách cũng có. Trong những đại bộ kinh luận, Bồ đề tâm lại được nói đến bằng phẩm hay phần. Riêng việc khuyến phát Bồ đề tâm, 1 tác phẩm từ đời Đường (số 1862 tập 45 của Đại tạng và số 883 tập 98 của Tục tạng) đã dành cho việc này. Tướng quốc Bùi Hưu của đời ấy cũng có một bài văn như vậy (số 1001 tập 103 của Tục tạng). Bài văn được dịch sau đây chỉ là hậu sinh mà thôi.

Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy, cuối cùng, phát hiện bản thể của tuệ giác ấy là chân như. Giai đoạn trước hết, chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề hàm có 2 tính chấtthành ngữ thường nói là “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”. Như vậy, đối với người học Phật, phát Bồ đề tâm không những là bước đầu mà còn là căn bản, không những là căn bản mà còn là cứu cánh. Do đó mà Bồ đề tâm thành căn bản của Bồ tát giới, và trong Mật giáo còn có sự thọ Bồ đề tâm giới, với một nghi thức dành cho việc này (số 915 tập 18 của Đại tạng).

Về lý do phát Bồ đề tâm, ngoài nỗi thống khổ sinh tử mà mình mục kíchý thức, có 2 việc mà kinh luận đề cập nhiều nhất, đó là tự biết mình có thể làm Phật và, tha thiết hơn cả, nghĩ đến sự suy tàn của Phật pháp.

Trong 2 buổi công phu, buổi sáng, sự phát Bồ đề tâm được thể hiện trong đoạn văn chính sau đây, ngoài văn phát nguyện hồi hướng:

Nguyện kim đắc quả thành Bảo vương,
Hoàn độ như thị hằng sa chúng
Tương thử thân tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh:
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,
Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ nê hoàn.
Đại hùng đại lực đại từ bi,
Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
Linh ngã tảo đăng vô thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng.
Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong,
Thước ca la tâm vô động chuyển.

Buổi chiều cũng vậy, sự phát Bồ đề tâm được thể hiện trong 2 đoạn văn chính sau đây, ngoài văn phát nguyện hồi hướng:

Ngã kim phát tâm, bất vị tự cầu Thanh Văn Duyên Giác, nãi chí quyền thừa chư vị Bồ tát; duy y tối thượng thừa, phát Bồ đề tâm: nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự tánh Phiền não thệ nguyện đoạn,
Tự tánh Pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.

Bài văn khuyến phát Bồ đề tâm được dịch sau đây, nói nhiều hơn về giai đoạn trước hết của sự phát Bồ đề tâm. Bài này nằm trong Tục tạng tập 109, trang 296b – 299a. Tục tạng tập 135 cũng có, trang 156b – 158b. Được Ngài Đế Nhàn giảng nghĩa, nên bài này cả nguyên văn lẫn giảng nghĩa nằm trong Đế Nhàn đại sư di tập, tập 7, trang 425 – 474. Bản giảng nghĩa này đã ấn hành riêng trước đó, in lần thứ 3 vào năm 1933. Hồi còn nhỏ bài văn này nằm trong chương trình năm thứ 5 lớp sơ đẳng Phật học của tôi. Theo tôi biết, bài văn này cũng đã được dịch ra tiếng Việt từ trước thế chiến 2, và tuồng như có ít nhất là 2 bản, tiếc rằng tôi không còn bản nào trong lúc dịch lại.

Để phụ thêm cho rõ về từ ngữ Phát Bồ đề tâm trong phương diện văn học, tôi phỏng thuật theo Ngài Thái Hư (Thái Hư đại sư toàn thư, tập 9, trang 755 – 766) thành bài phụ lục 1. Bài này tôi động đến 4 lần: năm 1946 tôi dịch tại Phúc Chỉnh (Ninh Bình) năm 1947 tôi dịch lại cạnh mẹ tôi trong chiến khu Quảng Bình, năm 1950 lược thuật đăng trong Viên Âm (sau lục in trong Tâm ảnh lục) và bây giờ viết phỏng lại đây.

Phụ lục 2 là tiểu truyện tác giả bài văn Khuyến phát Bồ đề tâm, lược dịch theo nguyên văn trong Tục tạng tập 109, trang 321, mặt a và b. Bản giảng nghĩa ấn hành riêng nói trên cũng có trích lục tiểu truyện này (trang 44 – 46).

Tuy nhiên, trường hợp tác giảtác phẩm Khuyến phát Bồ đề tâm còn nên nói thêm.

Tác giả của tác phẩm Khuyến phát tâm Bồ đề là Ngài Thật Hiền. Tác phẩm của Ngài Thật Hiền, tuy tiểu truyện đã liệt kê như trong phụ lục 2, nhưng tôi mới dò được trong Đại tạng (bản Đại chính tân tu) và Tục tạng (bản chữ Vạn) thì chỉ Tục tạng có:

1. Chú Tây phương phát nguyện văn, số 1146 của Tục tạng tập 108.

2. Đông Hải nhược giải, số 1163 của Tục tạng tập 109.

3. Tỉnh Am pháp sư ngữ lục, số 1164 của Tục tạng tập 109.

Riêng tập Tỉnh Am pháp sư ngữ lục, 52 năm sau khi Ngài Thật Hiền tịch (1786), Bành Tế Thanh thu thập ấn hành. Nội dung gồm nhiều văn phẩm của Ngài, tựu trung có:

a) Truyện vãng sanh của 2 Thượng nhân Mai Phương và Thánh Nhãn mà có lẽ tiểu truyện đã nói là Tục vãng sanh truyện. 2 truyện này, Tịnh độ hiền thánh lục cuốn 6 (Tục tạng tập 135, trang 156, a và b) trích lục ngay trước truyện của Ngài.

b) Khuyến tu Tịnh độ thi mà có lẽ tiểu truyện nói là Tịnh độ thi 108 bài.

c) Niết bàn hội phát nguyện văn,

Xá lợi sám tự,
Trùng kiến Niết bàn sám hội tự,
Niết bàn hội ước tự,
Niết bàn hội ước đệ nhị tự,
Niệm Phật qui ước,
Tịnh nghiệp đường qui ước.

d) Bài văn khuyến phát Bồ đề tâm được để đầu tiên.

Tất cả 7 bài nơi mục c) không những liên hệ đến bài văn Khuyến phát tâm Bồ đề tâm, mà còn có những chi tiết quan trọng bổ túc cho tiểu truyện của Ngài. Con người, chí nguyệnviệc làm của Ngài cũng bộc lộ qua chính 7 bài này.

Tuy nhiên, có một sự thiếu sót mà tôi nỗ lực tìm kiếm vẫn chưa ra, đó là 2 bản văn Xá Lợi sám và Niết bàn sám. 2 bản này có thật, 7 tài liệu trên chứng minh như vậy. Mà quan trọng là qua 7 tài liệu trên, cho thấy tác phẩm Khuyến phát Bồ đề tâm văn chỉ là bài văn viết trong sám hội của 2 sám văn ấy. Sau đây là sự việc lược thuật theo 7 tài liệu nói trên.

Tuy học rộng và chắc, Ngài Thật Hiềncon người nồng hậu, tình cảm, nặng về hành trì – một loại hành trì cũng theo bản chất tình cảm ấy. Mới xuất gia, Ngài liền hỏi các vị Trưởng lão về ngày Phật Niết bàn, ngày kỵ của Phật. Rồi mùa xuân năm Kỷ Hợi (1719), vượt đại giang, đến triều bái Xá lợi của Phật tôn thờ trong tháp đựng ở núi và chùa A Dục, tại đất và núi Tứ Minh. Tháp này là một nơi còn lại trong 19 nơi thờ Xá lợi của Phật tại Trung Hoa, được dựng vào năm 280, bởi Lợi Tân Bồ tát. Triều bái rồi, Ngài an cư tại đó. An cư xong, đốt một ngón tay cúng Phật. Mùa xuân năm sau, ngày Phật Niết bàn (tục lệ là rằm tháng hai), Ngài lại đến Tứ Minh, mở Niết bàn hội với chủ ý cúng kỵ Phật (từ ngữ của chính Ngài viết, Tục tạng tập 109, trang 305b). Hôm sau bái sám với 2 nghi thức Xá lợi sám và Niết bàn sám mà Ngài tự soạn thuật. Ngày thứ 7 hoàn tất, niệm Phật hồi hướng. Nguyện ước mỗi năm đều làm như vậy cho đến hết đời. Nhưng thật ra chỉ được 10 năm (Kỷ Hợi 1719 – Kỷ Dậu 1729). Sau đó, để mọi người khỏi quá mệt vì đi xa, quá tốn vì đường dài, Ngài tổ chức kỷ niệm ngày Phật Niết bàn bằng 10 ngày bái sám tại giới đàn Bồ tát của chùa Tiên Lâm, cũng bằng 2 sám văn trên. Việc đốt năm ngón tay cúng Phật chắc tuần tự thực hiện trong 10 năm triều bái Xá lợi tại tháp của núi và chùa A Dục.

Tuy không biết đích năm nào, nhưng bài văn khuyến phát Bồ đề tâm chắc chắn được viết theo nhu cầu của Niết bàn hội tại núi A Dục. Đại chúng đối tượng của bài văn này chính thị là những người cùng bái sám với Ngài tại đây. Trong văn nói phát 48 lời nguyện, 48 lời nguyện ấy nguyên văn còn đầy đủ, mang tên Niết bàn hội phát nguyện văn, 1 trong 7 tài liệu nói trên. Lại nói soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, thì sám pháp ấy chính thị là Xá lợi sám và Niết bàn sám, còn pháp hộiNiết bàn hội. Những lời này thấy ở đoạn giải thích lý do thứ 10 của sự phát Bồ đề tâm.

Triều bái Xá lợi của Phật với sự tưởng nhớ ơn Phật và nghĩ cách làm cho Phật pháp tồn tại, với sự phát Bồ đề tâm, lập 48 đại nguyện, bài sám bằng 2 nghi thức, đốt 5 ngón tay cúng dường, niệm Phậthồi hướng về Tịnh độ, làm như vậy suốt trong 10 mùa an cư dưới chân tháp tôn trí Xá lợi của Phật: đó là ý thức cùng nhau cúng kỵ Phật của Ngài Thật Hiền. Ngoài việc này, sau 10 năm nói trên, Ngài cùng mọi người chuyên tu Tịnh độ với 2 qui ước: 1 cho mỗi kỳ hạn 3 tuần và 1 cho mỗi kỳ hạn 3 năm. Với qui ước này, Ngài bảo ta đi là trở lại liền, và thành người khách đưa đường giữa Ta bàTịnh độ.

Về bài văn Khuyến phát Bồ đề tâm, và tác giả của nó là Ngài Thật Hiền, Bành Tế Thanh đã viết, đọc bài văn ấy không lúc nào tôi khỏi đổ mồ hôi, khỏi rơi nước mắt... Đại sư nhân chiêm bái Xá lợiphát tâm rộng lớn, ngôn từ phát ra như phơi trải gan ruột... Thật là ngọn cờ tinh tiến cho thời đại mạt pháp (Tục tạng tập 109, trang 295a). Lời này cũng đã đủ để giới thiệu.

Phần tôi, một hôm ngẫu nhiên gặp Thượng tọa Thiện Siêu và Đại đức Đổng Minh đang chung nhau bàn về bài văn này. Tối đó tôi mộng thấy thầy Trí Độ tôi bảo dịch. Đêm sau mộng nữa, thấy 2 hàng Tăng chúng đang đọc bài văn này. Do đó tôi quyết định dịch.

Vu Lan 2515

Trí Quang

(Nguồn: Tâm ảnh lục, tập 2, tr. 222 - 224)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14565)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11842)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14361)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13275)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12647)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25247)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27886)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26359)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17233)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15917)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22140)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17133)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24908)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21969)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19069)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16171)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21725)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16784)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14667)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16705)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18777)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14375)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16615)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12926)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14947)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14605)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28029)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27199)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14347)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20967)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24181)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28688)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14736)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13291)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16458)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27243)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16078)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21494)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12377)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant