Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tìm Mộ

28 Tháng Tám 201100:00(Xem: 5953)
4. Tìm Mộ

TÂM HƯƠNG TẢI ĐẠO
Tuyển tập truyện ngắn thắp lên tinh thần Đạo Giác Ngộ giữa chốn vô minh
Gió Đông xuất bản 2002
Linh Linh Ngọc

TÌM MỘ

Mâm cỗ chay chiều ba mươi Tết vừa dọn xong trên ban thờ gia tiên. Tôi đốt nhang trầm trong lư đồng nhỏ, cắm hai bình hoa huệ trắng muốt hai góc ban thờ Phật và rót trà mạn sen vào những tách sứ. Mẹ tôi mặc aó tràng nâu, tay cầm chuỗi hạt, ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu hoa trải trước ban thờ. Tôi vái một vái dài, thỉnh chuông mõ trên ban thờ Phật xuống rồi cũng ngồi xếp bằng, sau mẹ.

Hương trầm ngan ngát tỏa lan, quyện vào ánh nến ấm áp. Khung cửa sổ mở rộng, nhìn ra vườn sau, ở đấy, hai cây mai tứ qúi tôi cẩn thận tỉa lá từ trong năm, đang trổ những bông vàng rực rỡ bên gốc lê gìa điểm nụ trắng tinh khôi.

Mẹ tôi khai chuông. Sau lễ dâng hương, tôi nhịp mõ. Hai mẹ con bắt đầu tụng phiên Kinh Bát Nhã.

Khi mẹ chưa qua, trong những dịp lễ lạc, tôi hay đến chùa. Ở đó, giữa bao Phật tử thành tâm tụng niệm, tôi thường chỉ im lặng qùy gối suốt phiên kinh. Tiếng chuông mõ thường đưa tâm hồn tôi bay bổng về quê hương, nơi bàng bạc có tiếng chuông ngân từ ngôi từ-đường họ Nguyễn-Hữu. Ngôi từ-đường đó, sau năm 86, mẹ tôi đã cùng với ít ỏi con cháu giòng Nguyễn Hữu còn sót lại ở miền Bắc, chung lòng chung sức hoàn thành để vong linh Ông Bà Tổ Tiên có nơi nhang khói. 

Tôi tưởng mẹ đã tạm yên vui. Nhưng chưa.

Nhang trên ban thờ gia tiên vừa tàn. Xấp nhỏ theo bố mẹ chúng đi mua sắm chưa về. Tôi thắp thêm tuần nhang nữa. Hai mẹ con quyết định chờ con cháu về mới dọn cỗ xuống cùng ăn.

Vẫn ngồi trên chiếu trong tư thế tụng kinh, mẹ bỗng nhìn tôi, nói: 

-Qua Tết, mẹ định thu xếp về quê tìm mộ ông ngoại của cô.

Tôi ngạc nhiên:

-Tìm mộ ông ngoại con ? Làm sao tìm được ? Năm, sáu chục năm qua mẹ không liên lạc được với ai ở bên ngọai, biết bắt đầu từ đâu mà tìm ?

Mẹ tôi ngước nhìn lên làn khói nhang lan tỏa trên ban thờ, nói một cách tin tưởng: - Ông ngọai cô linh thiêng, sẽ phù hộ cho mẹ tìm được.

Tôi biết tính mẹ, tuy đôn hậu dịu dàng nhưng cương quyết. Tôi biết, rồi mẹ sẽ về quê tìm mộ ông ngoại, như mẹ đã từng quyết tâm dựng lại nhà thờ Tổ trên đất cũ ở quê nội. Trên tinh thần, hai sự việc có thể mang ý nghĩa như nhau, nhưng trên thực tế, việc tìm mộ ông ngoại tôi , chắc chắn không giản dị.
Ông ngọai mất khi mẹ mới mười bốn tuổi. Mẹ không hề có được một tấm hình của ông, nhưng lạ thay, tôi vẫn thường tưởng tượng được ông ngoại qua những mẩu chuyện mẹ kể.

Ông ngoại tôi là một, trong những người sáng lập ra công ty rượu Văn-Điển, cung cấp rượu cho hầu hết miền Bắc. Ông theo Tây học, đã từng xuất ngoại học ngành quản trị xí nghiệp ở Paris. Dẫu thế, ông vẫn không qua khỏi những cổ tụcquê nhà. Bà ngọai tôi là vợ chính thức do sự sắp xếp của đôi bên gia đình, nhưng chưa hề có một tờ hôn thú cũng như chưa hề theo ông ra tỉnh. Bà ngoại tôi ở quê đủ bốn mùa nắng mưa, đủ hai mùa cầy cấy, bình an thanh thản. Ông cứ đi Tây đi Tầu, cứ ở Hà-Nội, Hải-Phòng, Nghệ-An, Hà-Tĩnh... bao giờ ông ghé về quê thì bà lại tất tả bắt gà vịt nấu nướng, hái những cây trái tươi tốt nhất trong vườn mời ông nếm thử ...

Đời làm vợ của bà ngoại tôi chỉ có thế nhưng ngọai tôi an vui lắm. Mẹ tôi cho rằng ngoại an vui vì ngoại không hề biết đòi hỏi.

Ông ngoại tôi chu du khắp nơi rồi cũng trở về Hà-Nội. Ông cưới bà vợ hai để hy vọng có con trai, với sự đồng ý của gia đình, vì bà ngoại tôi chỉ có hai con gái là bác Xuân và mẹ tôi. Bà vợ hai của ông là dân tỉnh thành nên từ hình thức đến nội dung,bà hoàn toàn khác hẳn bà ngoại tôi. Điều đó khiến bà ngoại tôi rất vui mừngyên lòng ông đã có người tương xứng cận kề bầu bạn.

Việc ông ngoại tôi cưới vợ hai, hầu như chẳng ảnh hưởng gì nhiều tới gia đình, trừ mẹ tôi. Đây là một khúc quanh đau thương của mẹ. Một năm, sau khi về làm bạn với ông tôi, bà vợ hai đề nghị đưa mẹ tôi lên tỉnh. Bà nói rằng, con gái học chữ tới lớp ba là đủ rồi, phải lên tỉnh để bà dạy buôn bán, nội trợ ...

Với tâm hồn đôn hậu, chất phác, bà ngoại đưa mẹ tôi lên tỉnh để mẹ tôi được ở gần bố và được dì ghẻ dậy dỗ những điều thiết thực hơn. Bà ngoại tôi không bao giờ ngờ -và ngay cả ông ngoại tôi cũng không bao giờ biết - rằng trong ngôi nhà nguy nga kia, với năm, bẩy kẻ hầu người hạ, mẹ tôi đã bị đầy đọa thế nào. Tuổi thơ của mẹ tôi là những lời chửi rủa tục tằn, những trận đòn vô lý. Chị bếp nêm muối qúa tay, mẹ cũng bị lôi ra đánh vì “Mày mải chơi ở đâu, sao không trông chừng con bếp nấu nướng?“. Anh làm vườn vô ý để gẫy nhánh hải-đường, mẹ cũng bị một trận roi mây vì “Mày không biết nhắc nhở thằng Cán là phải nhẹ tay hả?“....Như thế, tuổi thơ của mẹ tôi là từng chuỗi dài sợ hãi, hồi hộp từng phút từng giây không biết lúc nào, chuyện gì xẩy ra , ở đâu, và roi mây từ tay người dì ghẻ sẽ ráng xuống như mưa rào. Trong những cơn mưa rào ấy, mẹ chỉ có thể làm được hai việc là khóc và xin lỗi bà dì ghẻ. Khóc là phản ứng tự nhiên của thể xác, vì bị đòn đau, nhưng xin lỗi bà dì ghẻ thì cho đến bây giờ, mẹ tôi cũng không hiểu tại sao phải xin lỗi.

Mỗi khi mẹ tôi kể chuyện cũ, tôi thường tức giận mà hỏi, sao mẹ tôi không mách ông ngoại. Thật là tội nghiệp, mẹ tôi sợ bà dì ghẻ tới mức nếu mách ông mà bà ta biết được, chắc bà ta sẽ cầm dao phay, chặt mẹ ra từng khúc !!!.

Thế nên, hơn bẩy năm trời sống gần bố là hơn bẩy năm sống trong địa ngục . Những người thương yêuche chở cho mẹ tôi chính là bà bếp, anh làm vườn, chú tài xế, con sen ...Nhưng họ cũng chỉ là tôi tớ trong nhà, họ có nhận hết lỗi lầm của họ thì mẹ tôi cũng vẫn bị đòn. Họ chỉ còn biết xót xa, lấy dầu xoa bóp cho mẹ sau mỗi trận mưa roi ...

Thời thơ ấu tối tăm,đau đớn này của mẹ, tôi có viết ngàn trang cũng chưa hết. Tôi chỉ gợi lên một phần nhỏ để phác họa về những bối cảnh quanh ông ngoại tôi. Ông là mẫu người có đầy đủ tất cả trong xã hội , từ tiền tài danh vọng tới vợ đẹp con ngoan. Vậy mà, thảm kịch đã đến khi mẹ tôi mới mười bốn tuổi. 

Thảm kịch này chỉ một mình ông ngoại tôi biết nguyên nhân, và cái nguyên nhân ấy đã theo ông xuống lòng đất lạnh.

Mùa hè Hà-Nội, trời nóng và khô. Hè cũng là mùa có nhiều cây trái ngon nhất trong năm. Nhưng ông ngoại tôi không thích gì ngoài chuối tiêu. Ông có thể ăn cả nải chuối một lúc nếu bữa cơm nào nhằm món không được vừa ý. Mẹ tôi biết thế, lúc nào cũng chọn những qủa chuối chín vàng, thơm ngon nhất, để sẵn trong phòng ông. 

Hôm đó là ngày 17 tháng 8 năm 1936, ông gọi chú tài xế đến sở đón ông về sớm hơn mọi ngày. Thấy ông tôi về sớm, mẹ tôi vội vã chạy lên lầu, chuẩn bị phòng tắm để ông đi tắm cho khỏe. Bà dì ghẻ thì đang bận rộn với mấy người hàng cốm, vừa gánh những mẹt cốm ngon nhất mùa tới theo lời bà dặn.
Mẹ tôi lo phòng tắm cho ông tôi xong, chạy xuống nhà bếp xem chị bếp đang nấu món gì. Mẹ xắt chưa xong mấy củ su hào thì chợt nghe từ trên lầu, một tiếng nổ chát chúa như tiếng súng. Chị bếp nghĩ là mấy đứa trẻ hàng xóm lại rình rập bắn chim bằng ná, những viên sỏi lớn bằng ngón tay cái thường rơi lộp độp trên mái bếp.

Mẹ buông su hào, chạy lên phòng ông ngoại. Mẹ không tin tiếng động vừa rồi là tiếng sỏi bắn chim.

Cửa phòng ông ngoại tôi chỉ khép hờ. Mẹ run giọng, gọi khẽ :

-Thầy ơi !

Không có tiếng ông ngoại tôi trả lời, mẹ đẩy nhẹ cửa, bước vào.

Ông ngoại tôi nằm vắt nửa người trên giường, nửa người như nhoài xuống đất. Khẩu súng lục văng trên nền đá hoa, máu loang đỏ cả tấm khăn phủ giường mầu trắng...

Mẹ tôi không thể nhớ nổi đã sợ hãi, đã đau đớn đến thế nào, cũng không thể nhớ đã chết lặng trước thi hài ông bao lâu. Chỉ biết khi mẹ đủ sức vùng chạy xuống nhà, bà dì ghẻ vẫn đang kỳ kèo thêm bớt với bà hàng cốm. Mẹ vừa nấc, vừa lắp bắp nói:

-Thầy ...thầỵ...chết ... rồi ...

Dù hốt hoảng, bà vẫn theo thói quen, giơ tay giáng hai cái tát nẩy lửa hai bên má mẹ, quát lên:

-Mày nói gì nhảm nhí thế, hả con chết bằm ?

Mẹ đã từng bị đánh chửi oan ròng rã bẩy, tám năm trời nhưng chưa bao giờ mẹ cảm thấy uất ức, thù ghét, khinh miệt bà dì ghẻ như phút giây đó. Có lẽ, trong tiềm thức, mẹ câm lặng, nhịn nhục vì yêu thương ông ngoại. Nếu ông biết mẹ bị dì ghẻ hành hạ, ông sẽ buồn và gia đình sẽ xào xáo. Ông vừa chết rồi, sự nhịn nhục bấy lâu như ùa vỡ. Mẹ nhớ rằng, mẹ bỗng cảm thấy cứng cỏi, mạnh mẽ. Mẹ nhìn thẳng bà dì ghẻ, và, lần đầu tiên trong đời, mẹ dám đổi cách xưng hô:

-Tôi nói, thầy tôi chết rồi, vừa chết rồi, bà nghe chưa ?

Mở lớn mắt, thực sự hốt hoảng, bà dì ghẻ vụt chạy lên lầu.

Hầu như bao nhiêu sức lực của mẹ chỉ có chừng ấy. Mẹ khóc nức lên rồi ngất xỉu.

Cái chết của ông ngoại tôi như thế. Đầy tức tưởi, đầy nghi vấn, nhưng theo lời mẹ tôi, trong gia đình không ai dám tỏ lộ niềm nghi hoặc.

Đám tang ông ngoại tôi lớn lắm. Ngoại họ hàng thân thuộc, bè bạn khắp nơi, phủ Toàn Quyền Đông Dương cũng cử phái đoàn tới phân ưu. Ai cũng tiếc rằng một người đang có đầy đủ hết mọi thứ trên đời như ông ngoại tôi, sao lại vì, buồn chuyện chi mà tự sát !!!.

Ông ngoại tôi được mai táng ở nghĩa địa Bạch Mai, tỉnh Hà-Nội.

Ngay sau tang lễ, mẹ tôi trở về quê sống với bà ngoại tôi.

Trong sáu chị em tôi, có lẽ chỉ có tôi là thỉnh thoảng lại thắc mắc về cái chết của ông. Mỗi tuổi, sự thắc mắc của tôi mỗi lớn dần. Nhưng tôi không biết hỏi ai ngoài bà ngoại và mẹ. Bà ngoại tôi thì không sống gần ông, lại qúa chất phác, còn mẹ tôi, khi thảm kịch xẩy ra mẹ chỉ là một cô bé yếu đuối, nhút nhát. Cả hai người không giúp gì nhiều cho tôi với những dấu hỏi mà, đối với tôi, phải có một giải đáp thích đáng.

Tôi cũng thực sự không hiểu tại sao tôi cứ bận tâm về cái chết của ông ngoại như thế. Mỗi năm, đến ngày giỗ ông, tôi lại còn ngớ ngẩn xin ông linh thiêng phù hộ cho tôi biết được nguyên do nào khiến ông phải tự sát tức tưởi như thế. Ở thế giới nào, ông có cảm động về những băn khoăn của đứa cháu mà ông chưa từng biết đến hay không ?.

Một lần, tôi mua tặng mẹ chiếc vòng hổ phách. Mẹ tôi ngắm nghía, mỉm cười. Tôi sung sướng hỏi:

-Mẹ thích không ?

Thật bất ngờ, mẹ tôi trả lời:

-Thích. Chiếc vòng này làm mẹ nhớ ông ngoại cô. Ngày xưa ông cũng cho mẹ chiếc vòng tương tự như chiếc này khi ông đi Nam-Kinh về.

Tôi ngạc nhiên:

-Nam-Kinh ? Bên Tầu ? Ông đi Tầu về ?

-Ừ, ông đi Tầu luôn.

-Sao mẹ nhớ được cái tên Nam-Kinh ? Sao con không bao giờ nghe mẹ nói đến ?

Mẹ tôi lại mỉm cười:

-Cô có hỏi đâu mà mẹ nói. Còn mẹ nhớ được tên Nam-Kinh vì khi ông ngoại cô đưa chiếc vòng cho mẹ, ông bảo là những người cùng đi với ông nói, vòng hổ phách đẹp nhất chỉ có ở Nam-Kinh.

Tôi không dấu được sự hồi hộp:

-Mẹ còn giữ không ?

Mẹ tôi thở dài:

-Mẹ chỉ được đeo có một ngày hôm đó. Bà dì ghẻ bảo tháo ra đưa bà giữ cho kẻo mất. Thế là mẹ mất luôn từ đó.

Câu chuyện chiếc vòng hổ phách cho tôi hy vọng có thể có thêm dữ kiện về cái chết của ông. Điều khó là tôi không biết mẹ tôi biết những gì để hỏi, và nếu tôi không biết hỏi, mẹ tôi cũng không bỗng dưng nhớ để nói ra.

Một lần khác, chở mẹ trên xa lộ, mẹ tôi bảo:

-Cô lái xe nhanh qúa, coi chừng bị phạt đấy.

Tôi giảm tốc độ rồi cười với mẹ rằng:

-Lái xe nhanh cũng thú lắm, nếu con có tiền cũng không mướn tài xế đâu. Ngày xưa các cụ con nhà giầu đều có tài xế riêng, chắc chẳng cụ nào biết lái xe, mất một cái thú trên đời.

Mẹ tôi buột miệng:

-Ông ngoại cô biết lái xe đấy chứ, nhưng lần đó, lái thế nào lại đâm vào xe của ông Toàn Quyền người Pháp.

-Trời, tài xế đâu mà ông ngoại phải lái xe ?

-Chẳng hiểu sao ông ngoại cô cho tài xế nghỉ hôm đó. Buổi sáng ông lái xe đi, nhưng trưa không thấy về ăn cơm mà mãi tận chiều tối mới thấy ông. Mẹ nghe lõm bõm ông nói với bà dì ghẻ là lỡ đụng phải xe ông Toàn Quyền trên dốc đê Yên-Phụ. Khúc quanh đó nguy hiểm lắm, lại không phải là đường ông ngoại cô đến công ty. Không biết ông đi đâu. Ông Toàn Quyền người Pháp không sao nhưng hai chiếc xe đều bị vỡ đèn và móp méo. Rồi ông ngoại cô phải tới ty cảnh sát khai báo và làm mọi thủ tục rắc rối.

Mẹ tôi nói lại mẩu chuyện cũ bằng một giọng bình thản, nhưng tôi cảm thấy tim mình như đập loạn nhịp khi mẹ nói thêm rằng tai nạn đụng xe chỉ mới ba ngày trước khi ông tự sát.

Hôm đó, ngay khi về tới nhà, tôi lao vào phòng, lục kệ sách, tìm cuốn sử về cuộc cách mạng cận đại những thập niên ba mươi, bốn mươi. Tôi đọc được những giòng “...Tháng tám năm 1934, tại Nam-Kinh, các nhà cách mạng Vũ hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm cùng các đại biểu Việt Nam Quốc Dân Đảng đến từ Xiêm, Quảng Tây và từ trong nước ra để bí mật chuẩn bị hội nghị. Hội nghị này nhằm kết hợp anh em cách mạng tất cả các đảng phái thành một tổ chức duy nhất, gom sức chống ngoại xâm ....”

Tôi đã ngồi lặng nhiều buổi, kết nối những sự việc ít ỏi mà tôi biết được về ông ngoại để tìm cho riêng mình một lời giải đáp. Với tôi, ông là một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã từng bôn ba nhiều lần sang Côn Minh, Nam Kinh bên Tầu để gặp các nhà cách mạng lưu vong, hầu tìm một giải pháp tranh đấu cho nền độc lập của xứ sở. Ở một thời điểm đúng, cho một sứ mạng nào đó, ông đã cho anh tài xế nghỉ việc để tự mình lái xe, đâm vào xe của viên Toàn Quyền. Việc không thành như mưu định, ông phải tự giải quyết bằng phát súng định mệnh để khỏi liên lụy anh em khác. Đó là cách giải quyết mà tôi thường đọc thấy trong sử liệu về các nhà cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Gạn lọc nhiều gỉa thuyết, tôi vẫn không tìm được kết luận nào tương đối có thể chấp nhận được hơn. Có điều lạ là từ khi tự tìm cho mình lời giải đáp đó, mỗi lần giỗ ông ngoại, lòng tôi không còn ray rứt nữa. Tôi hãnh diện được có ông ngoại, một người không cúi đầu trước ngoại xâm, không hèn nhát ích kỷ hưởng phú qúy sang giầu mà quên mối nhục của người dân bị trị.

Hơn sáu mươi năm đã trôi qua. Mẹ tôi, nay da đã mồi, tóc đã bạc, cố trở về quê xưa một lần tìm lại mộ cha dù không có một chi tiết nào hơn ngoài bốn chữ: nghĩa địa Bạch-Mai, nhưng nghĩa địa này đã bị san bằng từ nhiều năm qua !!!.

Vậy mà, như phép lạ, mẹ tôi tìm đến được người giữ sổ nghĩa địa năm xưa. Họ nói rằng, có thông báo trước khi san bằng, để ai có thân nhân thì lo dời đi. Theo sổ sách, mộ ông ngoại tôi đã được dời lên nghĩa trang Tân-Kỳ thuộc Sơn-Tây, do một người ở Thịnh-Hào, thuộc Ô Chợ Dừa đảm trách. Họ cho mẹ tôi địa chỉ người ở Thịnh Hào. 

Khi mẹ tôi tìm đến, gia đình này đã dọn đi khỏi từ hai năm nay, chủ nhà mới không biết họ đi đâu...

Cùng với hai người cô bên ngoại, mẹ tôi ôm gói nhang đèn, vừa khóc vừa leo lên đồi khu nghĩa trang Tân-Kỳ tìm ngôi mộ số 16, khu E dãy 14 ...

Trên ngọn đồi lộng gío, những ngôi mộ trắng, mấp mô, nằm im lìm giữa những bụi gai dại , những lùm hoa vàng anh, hoa nghệ tím, xen lẫn dăm gốc hoa dừa trắng đỏ, lay động trong làn gío se lạnh...

Khi người cô nói: <Đây rồi !!>, là lúc mẹ tôi qụy xuống như một tàu lá trong cơn bão lớn. Sáu mươi năm, mẹ tưởng như chớp mắt, dù cuộc đời đã trải qua bao cảnh bể dâu ...

Tấm bia cổ nguyên thủy trên mộ ông ngoại được người dời mộ mang đi theo việc cải táng lên nghĩa trang Tân-Kỳ, mẹ tôi còn nhận ra được. Tấm bia ghi tên ông và những giòng chữ bằng tiếng Pháp:

 CI GIT
 Trần Quang Vinh
 Decede Le 17 Aôut 1936

Trước khi rời Việt Nam, mẹ tôi đã xây lại mộ ông ngoại. Tấm bia mới được ghi:

 Thầy Trần Quang Vinh
 Mất ngày 17 tháng 8 năm 1936
 Tại Hà-Nội 

Góc phải tấm bia, mẹ gắn miếng đồng nhỏ tôi đã làm sẵn đưa mẹ. Miếng đồng chỉ khắc bốn chữ: Vị Quốc Vong Thân.

Linh Linh Ngọc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14302)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14562)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14356)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13271)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14634)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12641)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25230)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27865)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26340)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17228)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16525)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15914)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22134)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17131)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24900)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21956)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19057)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16170)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16779)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14664)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16698)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25026)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18770)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14775)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14371)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16611)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12921)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14942)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12700)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13885)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14599)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28020)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27179)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14346)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20949)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24174)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28674)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14734)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13284)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16444)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27229)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12018)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16074)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21483)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12376)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant