Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Người đưa thư không trở lại

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6598)
10. Người đưa thư không trở lại

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
 Huệ Trân 2008

Người đưa thư không trở lại

Túi vải đã sẵn trên vai, gã nhìn quanh căn phòng tạm trú, với tay, lấy chiếc mũ nỉ trong tủ áo, chụp lên đầu rồi khép cửa, bước ra đường.

Nắng buổi trưa như đổ lửa, nóng hừng hực. Gã đứng ngơ ngác trước ngã tư, mất định hướng, dù gã đã được cho biết nơi gã tạm trú là đường Vĩnh Viễn, đi thẳng, sẽ gặp đường Lê Hồng Phong, rẽ trái không xa sẽ là Ngã Bẩy. Ngôi nhà xưa ở trong một đường hẻm gần đấy.

Những địa danh này từng quá quen thuộc, nhưng sau hơn ba mươi ba năm, gã đang là người khách lạ giữa lòng quê hương. Rừng xe gắn máy đủ loại, ngược xuôi hối hả, luồn lách tài tình quanh những xe tải, xe taxi, khách bộ hành. Người và xe đều thản nhiên chen lấn trên những con đường hẹp.

Gã đứng đó, nhìn xuôi, nhìn ngược một lúc, chợt bật cười khi có cảm tưởng đang lạc vào một hành tinh khác, chứ không chỉ lạc giữa lòng quê hương, vì những người đi xe gắn máy đều đội nón sắt, đeo khẩu trang, trừ hai con mắt, chẳng ai nhìn rõ mặt mũi nhau ra sao! Họ như đoàn người máy bận rộn, lạnh lùng. Lòng gã chợt nao nao bóng hình tà áo lụa Hà-Đông e ấp bay trong gió, tiếng guốc ai khoan thai gõ nhịp trên những hè phố thân quen…

Gã giật mình khi một chiếc Honda, vừa ép sát lề đường, vừa hỏi trống không:

- Đi đâu?

Gã nhìn quanh, không chắc có phải người lái xe hỏi mình. 

- Đi không?

Xe vẫn nổ máy, nhưng đã ngừng ngay trước mặt gã. Vậy, chắc là hỏi gã rồi. Gã cũng trả lời trống không, cho cùng một tần số:

- Đi.

- Đi đâu?

- Gò Vấp, đường Lê Quang Định. Có xa không?

Ngôn ngữ như phải xài tằn tiện lắm nên thay vì trả lời, người lái xe đưa cho gã một chiếc nón an toàn. Loay hoay một lúc gã mới đội được chiếc nón sắt vẽ hoa lá đủ mầu sắc lộn xộn, để cùng trở thành “người từ hành tinh khác” như gã vừa nghĩ dăm phút trước đây.

Chiếc Honda lao vào giòng xe cộ đông nghẹt. Đôi lúc, gã nhắm mắt, chờ nghe một tiếng “rầm” vì không thể tưởng tượng có thể quẹo như thế, chạy như thế, tránh như thế mà không va chạm nhau! Ấy vậy mà cũng tới được đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, còn đủ tứ chi!

- Xuống đâu? Khúc nào?

- Ơ ….. chùa Quảng Hương Già Lam ở khúc nào?

- Gần chùa Dược Sư phải không?

Gã đáp bừa:

- Ừ!

May quá, vừa qua chùa Dược Sư chừng hai trăm thước, gã nhìn thấy tấm bảng nhỏ treo trên cột đèn ngoài đầu hẻm: “Tu viện Quảng Hương Già Lam”. Gã rối rít nói:

- Ngừng đây! Ngừng đây đi!

- Không vào tới chùa hả?

- Không, đây được rồi. Bao nhiêu?

- Cho bẩy chục.

Gã móc túi vải, trả tiền, chờ chiếc Honda rồ máy, phóng đi, mới thở một hơi thật sâu, lững thững vào con hẻm nhỏ.

Gã bước chậm lắm. Bước mà như không bước. Gã muốn cởi giầy, đi chân không, để nền đất này tiếp xúc với gan bàn chân, truyền ra từng tế bào, từng mạch máu. Gã nghe tiếng thổn thức không ngừng bên lồng ngực trái, nơi trái tim đang đập lạc nhịp. 

Hôm đầu tiên, gã cứ tưởng gã sẽ khóc nức nở hay ít nhất, cũng thầm lặng rung động toàn thân khi máy bay đáp xuống sân bay, nơi hơn ba mươi ba năm trước gã đã hốt hoảng rời quê hương ra đi. Vậy mà lòng gã lạnh tanh! Gã thử cấu mạnh vào cánh tay, xem còn cảm giác không. Còn chứ! Vết cấu trắng bạch vì máu bị chặn, rồi sau đó đỏ bầm! Hay vì chuyến bay khá dài, thần hồn chưa về với thần xác? Cũng không phải nốt, vì gã đã ăn uống, nghỉ ngơi, tắm gội tỉnh táo thoải mái rồi mới bắt đầu “phiêu lưu ký.” Gã đã gặp dăm bạn cũ, đã thử đi trên vài góc phố xưa, nhưng lạ quá, lòng dửng dưng trước người xưa cảnh cũ nên đi như chỉ để mà đi! Đi như kẻ độc hành trên con đường thiên lý mịt mù! 

Đêm qua, trở về nhà trọ, gã nằm khóc vì sự mất mát bất ngờ này. Người đã lạ, cảnh đã dời, hay chính gã đã sẵn những chắn song vô hình vạch lằn ranh oan nghiệt??? Có thể tất cả đã trộn lẫn với nhau thành sự hủy hoại vô tình, vốn là bản chất của tự thể vạn hữu! 

Nhưng gã còn một sợi nắng để bám víu. Gã vẫn để dành sợi nắng này, như kẻ nghèo khó cẩn thận cất giữ vật quí giá cuối cùng, chỉ dùng khi đứng trước sự sống và cái chết. Bảo vật của gã là ngôi cổ tự mà gã đang tìm đến, một nơi mà trong trí tưởng và trong cả niềm tin, đẹp như tranh vẽ của vua Lý Thái Tôn:

“Hạo hạo Lăng-già nguyệt

Phân phân Bát-nhã liên”

Tạm dịch là:

“Lăng-già ngời trăng tỏ

Bát-nhã ngát hương sen”

Nét tịch-lặng-như-nhiên không thể đến từ vết thương của những mưu toan tuyệt vọng, mà phải từ hạnh nguyện Bồ Tát “Hư không hữu tận. Ngã nguyện vô cùng”, là lời kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, phát nguyện rằng “Hư không còn có thể đến chỗ cùng tận, nhưng tâm nguyện đại bi của ta thì vô cùng vô tận.” 

Không thực hiện ý định cởi giầy mà đi được nửa đường hẻm, gã bỗng cảm thấy gan bàn chân co giựt thật nhẹ. Những tế bào li ti đang kể cho nhau nghe cuộc điện đàm ngắn ngủi với một sư-cô, đã hỏi gã hơn một năm trước đây:

- Sư-phụ của em là ai? Có phải vị ẩn-sư trong ngôi cổ tự Già Lam không?

im lặng.

- Có phải em đã về đó để xin Thầy xuống tóc?

im lặng.

- Hay ngoài này có ai đại diện Thầy, xuống tóc cho em?

im lặng

Gã không có câu trả lời vì tự thể những câu hỏi đó đã thấp thoáng tinh thần Bát-Nhã “có mà không, không mà có.” Ấy thế mà do đâu, những câu hỏi đã thành hình? Có phải giữa bao hữu hình ngộ nhận còn có những vô hình chứng thực sự mầu nhiệm chân-như?

Hôm nay, những câu hỏi mà thực chẳng phải câu hỏi, lại đang xôn xao theo bước chân gã, đi tìm cái vô-hình-vô-hạn trong chật hẹp của cái hữu-hình-hữu-hạn!

Thầy ơi, con đang bước những bước đến rất gần Thầy. Con biết, con đang bước trên đường quê hương, vì quê hương đích thực chỉ có một. Người ta có thể không chấp nhận những dị đồng về chủ thuyết, ý thức hệ, nhân sinh quan …v… v… nhưng làm sao chối bỏ được quê hương, khi những dị đồng đó đều sẽ thành rồi hoại, đến rồi đi. Lịch sử nhân loại có bao giờ ngừng chứng minh sự thăng trầm bất tận này đâu! Thực chất của giòng chảy đó chỉ mong manh như ngọn thu phong làm rụng những lá vàng, mà quê hương là ngút ngàn tuyết sơn thinh lặng, trơ gan cùng tuế nguyệt. Theo biến chuyển của lịch sử, người ta cũng có thể có quê hương thứ hai, thứ ba, thứ tư, nhưng vẫn biết và biết rất rõ, từ mảnh đất nào người ta đã hiện hữu

Có gì là tội lỗi trước sự thực này không? Con muốn tự chứng nghiệm nên đã về đây. Thời gian hơn một phần tư thế kỷ có thể là quá dài với một đời người, nhưng vẫn là quá ngắn với giòng lịch sử không ngừng đổi thay, hưng phế… 

Từng bước chậm, con đang tiến vào ngôi cổ tự, nơi có tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ở sân trước, có cầu thang xi măng bên trái, dẫn lên từng lầu một. Hết những bực thang, bước thêm dăm bước sẽ thấy bên phải là tấm bình phong đan bằng tre đơn sơ, nhìn từ đó có thể thấy rõ hành lang hẹp, treo chiếc võng xanh, mầu đã bạc, gai đã sờn, chiếc nón lá móc gần đấy cũng đã cũ. Trên hành lang nền gạch đá hoa mầu huyết dụ là chiếc bàn nhỏ, có một khay gỗ để dăm cái tách, chiếc bình thủy trắng và một ấm đất nung, để pha trà. Hành lang này chính là “phòng khách” in bao dấu chân khách vãng lai đến rồi đi, chỉ những giỏ phong lan là vẫn còn đó với tháng năm, qua bao mùa mưa nắng. Cảnh trí này từng phổ biến nhiều nơi, từ nhiều năm vẫn chỉ có bấy nhiêu nên tuy đến lần đầu mà con thấy quen thuộc quá!

Dừng lại trước tấm bình phong ngăn ranh giới đó, khách chỉ cần lên tiếng: “Thưa Thầy”, là giây lát thôi, tấm màn trúc trước Thị Ngạn Am lay động, và vị thầy tu “mình hạc sương mai” bước ra

Như thế đó, ngoài những giờ Thầy miệt mài với dịch kinh, với soạn bài cho các lớp học, thì ai có lòng viếng thăm, xin cứ đến. Cửa ngõ chẳng bao giờ đóng, mâm cao cỗ đầy chẳng bao giờ có để mời, nên ai đến thì cũng như ai; tâm chủ an nhiên tự tại rộng mở, tâm khách ra sao, tự khách biết, vì “Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về” (*)

Cố trấn tĩnh thế nào, gã cũng nghe giọng mình nghẹn ngào khi cất tiếng “Thưa Thầy”. Rồi tấm màn trúc lay động. Thầy bước ra.

Thầy đó.

Vẫn tấm áo nhật bình dài quá đầu gối mà khi xưa, các học tăng Phật học viện Hải Đức trên đồi Trại Thủy đã thầm thì với nhau: “Không ngờ giảng sư trẻ qúa! Mà sao y phục Thầy giản dị thế!” Vẫn nhân dáng đó, phong cách đó, ánh mắt đó, nụ cười đó, trước sau như một, có phải là thể hiện của “Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm” mới “viễn ly điên đảo mộng tưởng” như thế?

- Ai đó? Mời vào!

Tuy hỏi nhưng rõ ràng khách là ai, không cần biết. Điều đáng biết là tấm lòng khách đã tới đây thì xin mời vào!

Gã lách qua tấm vách tre, vừa thở chánh niệm, vừa cúi đầu, bước vào. 

“Ôi mênh mông một trời Bát Nhã

Từ bi tâm hiển lộ liên hoa

Mở trang Kinh Ngọc, thơm ba cõi

Đảnh lễ Thầy, sông núi chia xa” (+)

Gã đã quỳ xuống, đảnh lễ Thầy. Lúc ngửng lên, Thầy nhìn gã bằng đôi mắt từ ái, rồi bất ngờ hỏi:

- Diệu Trân, phải không?

Trái tim gã như muốn rớt ra khỏi lồng ngực:

- Dạ, bạch Thầy, con đây ạ. 

Chỉ có thế thôi. Cuối cùng thì cũng phải tới lúc gã đi tìm Thầy. Và Thầy đã nhận ra gã. Gã chỉ xúc động chứ không hề ngạc nhiên khi Thầy mỉm cười nhẹ nhàng hỏi, mà thực đã biết. 

“Người đưa thư đã không trở lại.” Thầy nói như thế khi gã nhắc tới lá thư nhờ trao tận tay Thầy mấy năm trước đây. Trong thư, gã xin Thầy một pháp danh. Người đưa thư sẽ trở lại nhận hồi âm, nếu lời thỉnh cầu này được chấp thuận. Khi nhận được pháp danh thì từ phương xa, gã sẽ hướng về trời Nam, đảnh lễ Thầy và xuống tóc. 

Tâm là họa sỹ, tự sáng tác mọi họa phẩm theo hoài mong và trí tưởng. Tâm gã như thế, nhưng không được hồi âm nên bức họa dở dang. May thay, những nghịch duyên đời-thường lại là thuận duyên để gã quyết tâm đi tiếp cho bức họa hoàn thành, dù lời thỉnh cầu năm xưa không một âm vang vọng lại!

Thầy nhìn gã, ánh mắt vừa hoan hỷ, vừa xót thương rồi lẳng lặng đứng lên, khuất sau màn trúc. Một lát, Thầy trở ra, ngồi xuống chỗ cũ. Vẫn ánh mắt vừa hoan hỷ, vừa xót thương, Thầy trao cho gã một tờ mộc bản. Trên nền giấy đã úa vàng, những nét chữ Hán vẫn bay bướm, vẫn thong dong. Gã đưa hai tay nhận, chăm chú nhìn. Thầy chỉ vào hai chữ chính giữa và hỏi:

- Biết chữ gì đây không?

ấp úng:

- Dạ … chữ …

- Hạnh Chi.

Gã mừng rỡ vì đã ngờ ngợ nhận ra chữ “Chi”. Gã thưa:

- Bạch Thầy, phải chữ “Chi” ở đây là “cành”, như “Nhất chi Mai” là “Một cành Mai” không ạ?

- Phải, “Chi” này là “cành” chứ không phải “Tri” là “biết”, và “Hạnh” đây không phải “hạnh kiểm” mà là “cái Hạnh, nét đẹp của trí tuệ”. Tôi đã viết hai chữ này ngay khi nhận thư. Nhưng người đưa thư không thấy trở lại. Tôi vẫn giữ đây.

Gã nhìn trân trối tờ giấy mỏng, lay động vì những nét chữ trên đó đang cùng nhảy múa theo một cung bực trầm bổng mơ hồ nào, mà hát ra lời giải tỏa nỗi mong chờ đằng đẵng bao năm: “Người đưa thư đã không trở lại. Người đưa thư đã không trở lại. Ơi …Ớ … Ơi. Người đưa thư đã không trở lại Ơi Ớ Ời …Ơi …Ớ … Ời …” 

Không kềm lòng nổi, gã đã nấc lên “Trời ơi!”

Phong linh treo trên những giò lan chợt lao xao trong gió. Âm thanh quyện với hương trà Thầy tự tay pha, đãi trò, khiến gã rưng rưng khi nâng tách. Không còn thấy ranh giới nào của quá khứ, hiện tại, vị lai, chỉ là sự kỳ diệu của vô thỉ vô chung, không nơi bắt đầu, không chỗ kết thúc.

Tách trà nằm yên mãi trên tay. 

Thầy lặng thinh, như đang nghe hương lan thẩm thấu trong hương trà. 

Phút giây, gã vụng về để những giọt nước mắt thổn thức rơi xuống tách. Những giọt nước mắt muộn màng, lặng lẽ hóa thân thành những câu thơ tưởng đã chôn vùi sau lớp bụi thời gian:

“Hỡi ơi! Một buổi hoa râm
Trời chưa nắng dại, tóc dầm sương khuya
Nụ cười, rồi một chuyến đi
Còn e năm tháng đã về trước ta
Môi in nửa bóng trăng tà!” (*)

(Cốc Thảnh Thơi – Mùa Trăng, 2008)

(*) Thơ Thầy Tuệ Sỹ
(+) Thơ DT 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26250)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21662)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23443)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14753)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12966)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19866)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13830)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22782)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11996)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12434)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24097)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13741)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21097)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25700)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19264)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23258)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21410)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18343)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14012)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15479)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17895)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21985)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17571)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30975)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28104)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14887)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17173)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22637)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28291)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14034)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17069)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22323)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14186)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21498)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20837)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28569)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15079)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26619)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19305)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31650)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30678)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21030)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26276)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23607)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25650)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25453)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19746)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18504)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17809)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19078)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant