Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Duyên nghiệp

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 7025)
Chương 7: Duyên nghiệp

ĐÔI BẠN HÀNH HƯƠNG
Chiêu Hoàng

Chương 7: Duyên nghiệp

Tối hôm đó, họ dừng chân tại một quán trọ. Vì công chúa đã vét hết tiền cho ăn mày, nên phải cầm cái vòng đeo tay cho chủ quán và bảo:

– Ông hãy đem chiếc vòng này đổi thành bạc và cho ta một căn phòng lớn.

Gã chủ quán nhìn sơ qua chiếc vòng thấy nét khắc rất tinh xảo, biết ngay rằng đó là một vật rất quý giá, nên càng tỏ vẻ khúm núm và chiều đãi khách quý hơn.

Đó là một căn phòng có cửa sổ nhìn ra sau vườn. Thoạt nhìn, khu vườn được trồng tỉa rất tươm tất và thanh nhã. Góc vườn là một hòn non bộ với thác nước chảy róc rách nghe rất vui tai. Tuy là nhân tạo, nhưng cách kiến trúc cũng khá cầu kỳ. Chung quanh thác, chủ nhân trồng vài cây liễu tô điểm thêm các loại hoa đủ màu thi nhau đua sắc. Công chúa rất ưa thích hoa, nhất là các loài lan. Có những loại cánh nó mong manh nhỏ bé, có loại trắng nuốt như ngọc.

Vẫn như thường lệ, công chúa cũng làm một chiếc giường nhỏ cho Ếch, nàng vốn giàu tưởng tượng và có khiếu mỹ thuật, nên chiếc giường luôn luôn được nàng tô điểm thêm bằng những cánh hoa. Sau khi về đến phòng, công chúa cảm thấy mệt mỏi một cách lạ thường, nàng đi ngủ ngay, nhưng cũng không quên chúc Ếch một đêm ngon giấc.

Từ khi gặp được thằng bé ăn mày, Ếch bỗng trở nên tư lựít nói. Công chúa có hỏi điều gì thì cũng chỉ ậm ừ cho qua. Hình như trong tâm Ếch dấy lên một nỗi muộn phiền nào đó. Công chúa tôn trọng nỗi buồn của bạn, nên cũng không tò mò hỏi han thêm.

Còn Ếch thì bỗng thấy lòng mình chùng lại, chàng đột nhiên nhớ đến những ngày tháng miệt mài trong thiền định, nhớ đến niềm cô tịch và mùi hương trầm thơm ngát trong những buổi chiều nắng quải. Nhận ra cuộc đời muôn mặt. Tình yêu, cái chết, niềm vui thiền định, nỗi cô đơn v.v... Tất cả... tất cả... đều là những cảm giác cần phải chứng nghiệm và kinh qua. Ngày xưa, trong những ngày tháng miệt mài đi sâu vào tâm thức, chàng thường phải đối diện với nỗi cô đơn, những muộn phiền của ma ý, những nỗi khắc khoải của các “công án” hóc búa như một mũi dao sắc đâm sâu trong trái tim, rút ra cũng chẳng được, mà để nguyên như thế cũng chẳng xong. Nhưng bù lại, chàng có được niềm an vui của thiền lạc.

Ngày ấy... Ôi! Sao mới có vài năm mà nghe chừng như cả thế kỷ. Ngày ấy, trong những lúc tu tập, chàng đã say mê trong thiền lạc (đó cũng là một “căn bệnh trầm kha” của người tu hành). Có những lúc chàng cảm thấy như vong thân, không còn thấy sự hiện diện của sắc thân nữa, hình như nó thành ánh sáng, hòa tan vào hư không. Những lúc như vậy, chàng cố gắng an trú trong trạng thái đó càng lâu càng hay, rồi đâm ra sống xa vời với thực tế. Không muốn xả thiền nữa, vì cứ hễ xả thiền, chàng lại phải trở về với đời sống thực, đầy cấu nhiễm, đầy vọng tưởng xôn xao...

Rồi đến một đêm trời đầy sao như hôm nay. Oan khiên lại đến, chỉ vì một niệm sân hận mà chàng phải mang thân ếch thế này...

Tối hôm ấy, đang trong lúc thiền định thì chàng bỗng nghe tiếng ồm ộp của một chú ếch. Hình như nó đang gọi bạn, hay đang hát. (Ta nên biết một điều, khi tu hành đến mức độ có cảm giác vong thân, thì lúc đó tâm thức khá thanh tịnh, có thể “đọc” được một chút tâm niệm của những chúng hữu tình bình thường). Dưới ánh trăng, đó là một con Ếch màu xanh rêu đậm, nó đậu trên một lá sen lớn, đang rống cổ lên “hát” say sưa. Để ý kỹ, cũng thấy có nhịp điệu hẳn hòi, khi cao, khi thấp... Ban đầu, chàng cũng không để ý lắm vì chàng vẫn thường quen với những âm thanh rỉ rả của ve sầu, ếch, nhái. Nhưng dần dà, hình như âm thanh càng ồm ồm hơn, tiếng kêu thật là nhức óc, xoáy tai, không thể tập trung vào thiền định được nữa, chàng liền từ từ xả thiền...

Đêm hôm sau, cũng đang trong công phu thiền định, thì chú ếch hôm qua lại nhảy lên lá sen ấy, cũng cất tiếng kêu. Độ một lúc thì có tiếng ếch thứ hai đáp lại, có lẽ đó là một chị ếch, nên âm thanh vừa ngắn lại vừa trong. Cả hai khấy động sự yên tĩnh trong đêm khuya, chàng có cảm tưởng chúng nó đang say sưa hoà nhịp, kẻ tung, người hứng, như đang khiêu vũ với nhau bằng âm thanh ồm ộp ấy, như muốn trêu tức chàng...

Lòng xôn xao không chủ định. Chàng lại xả thiền...

Đêm thứ ba, rồi đêm sau, đêm sau nữa... Gần cả tuần lễ chàng không cách gì thiền định được, cứ hễ sắp nhập thiền thì tiếng ếch lại kêu. Riết rồi, tâm bị phân. Đầu óc chàng trở nên... rình rập và chờ đợi âm thanh ấy đến. Càng chờ đợi, chàng càng nóng nảy, tâm càng vọng động.

Sang đến đêm thứ mười lăm, đêm đó lại là ngày rằm, ánh trăng chan hoà khắp nơi, mặt trăng to như chiếc bánh treo lơ lửng trên không. Lòng dặn lòng rằng đêm nay ta quyết chí nhập thiền và đóng hết tất cả các giác quan để không bị quấy nhiễu nữa... Canh một qua đi trong yên lặng, sang đến đầu canh hai thì tiếng ếch bất thình lình lại nổi lên. Lần này như ròn rã, như chát chúa, như muốn trêu tức chàng. Đêm nay, chỉ có tiếng kêu của một chú ếch. Kêu một lúc, nó ngừng bặt, rồi bất thình lình, nó nhảy từ hòn đá phía bên kia bờ rạch qua sát phía bên chỗ chàng đang ngồi cách khoảng gang tay, kêu lên một tiếng “ộp” lớn.

Không thể chịu đựng được nữa, chàng lập tức xả thiền và vói ngay hòn đá bên cạnh đập mạnh xuống. Con ếch chết tức thì... Còn chàng thì choáng váng, bần thần. Phần vì sự hối hận lên đến tột đỉnh vì đã phạm giới sát. Phần vì xuất thiền quá nhanh nên kinh mạch bị rối loạn, chàng thấy bầu trời quay cuồng như mình đang bị xoáy trong một cơn lốc lớn. Chàng cố ôm lấy xác ếch cầu nguyện trước khi ngã quỵ xuống và ngất đi...

Tỉnh dậy, thấy mình biến thành con ếch nhỏ (Do vì công phu tu hành, nên có đuợc tam sắc cực kỳ đẹp mắt và vẫn còn nói được tiếng người) Nghe đâu đây trên không trung có một tiếng nói rất mơ hồ nhưng rõ rệt:

– Ngươi phải chịu quả báo làm thân ếch trong ba năm. Phải lăn lộn vào dòng đời để học được thế nào là lòng yêu thương, bác ái... Trừ phi ngươi gặp được một người yêu thươngcải hóa được tâm hồn khô cằn chỉ cầu trí huệ của ngươi thì mới được trở lại làm người trước khi thời hạn chấm dứt...

Từ đó, chàng đi lang thang đây đó. Tìm mãi bài học vỡ lòng về yêu thương. Cho đến khi cơ duyên chín mùi thì gặp được nàng công chúa...

Ngày nay, càng đi sâu vào đời, nếm được hương vị của tình yêu trai gái (mà ngày trước chàng rất... khinh bỉ và coi thường). Chàng cũng thấy tình yêu kỳ diệu biết bao. Nó rất lung linh đẹp như một bức tranh cổ, như hư, như thực...

Do sự tu tập thiền định khá thuần thục, nên khi dối diện với tình yêu dành cho Công chúa, thỉnh thoảng trong lòng chàng lại nảy lên một sự tiếc nuối trong những ngày tháng tu tập xưa. Sợ rằng nếu cứ đắm đuối trong tình cảm bình thường của thế gian này, thì khó có thể đạt đến Giải Thoát. (Chàng có biết đâu rằng, tình yêu trai gái chính là cái bóng dáng, là “mặt bên kia” của lòng từ bi. Mà muốn có, bắt buộc ta phải đi từ mức độ thấp nhất. Ít nhất cũng có được tình yêu – mà chàng cho là rất “đời”–, rồi từ tình yêu ấy, đi xa hơn – trong một chánh kiến do sự tu tậpdần dần sẽ trở thành tình bác ái, lòng vị tha, rồi lên cao hơn, sẽ phải tu tập về tâm từ, tâm bi để có thể phát triển được tâm Bồ Đề).

Vì không biết được điều này, nên lòng chàng đang hoang mang giữa bờ mé của Đời và Đạo. Chàng cảm thấy lòng mình dấy lên một tình cảm khó tả... Một nỗi muộn phiền lảng vảng đâu đây...

***

Đêm đã rất sâu, bầu trời như trong hơn, những vì sao càng lung linh, lấp lánh trên cao.

Đợi đến khi Công chúa đã ngủ say. Ếch lắc mình, chiếc áo khoác mang hình ếch rớt xuống, chàng hiện lại nguyên hình người và lẻn ra sau vườn. Mùi hương đêm chen lẫn với hương hoa thơm ngát một vùng. Chàng tần ngần ngừng lại bên hòn non bộ cạnh thác nước nhân tạo. Tiếng róc rách của nước làm chàng nhớ đến tiếng thác hùng vĩ hôm nào cùng công chúa trong cánh rừng bên một chiếc hang nhỏ. Lòng xôn xao quá, mới đây mà đã trở thành kỷ niệm. Rồi sẽ ra sao sau khi tìm được giáo pháp? Sớm muộn gì cũng phải chia tay. Đời là vậy, khi hợp, khi tan... Nỗi buồn miên man vô tận thường đi theo ngay sau bóng dáng của niềm vui. Chàng ngạc nhiên đến tận cùng khi “ngắm nhìn” tâm thức mình lao xao đầy vọng tưởng. Thật ra, trên mỗi bề mặt của tâm thức, dẫu là vọng hay chân cũng đều mang một dáng dấp giá trị nào đó cần phải kinh qua. (Tặc lưỡi, chàng nghĩ) Hay ta cứ đi sâu vào vọng cho đến tận cùng xem sao. Điều quan trọng là vào mà còn tỉnh thức để đi ra mới thật là Đạo.

Đêm càng sâu...

Đâu đây, tiếng côn trùng rả rích giữa đêm khuya....

Ếch ngồi xuống chiếc bàn đá bên cạnh thác nước. Chàng khẽ hái một cánh lá rồi thổi tâm lực vào đó. Lạ lùng thay, cánh lá biến thành một cái khay con, trên có một bình rượu cổ cao và một cái chén nhỏ... Chàng lại hái một cánh lá khác, trên còn đọng một hạt sương trong suốt như thủy tinh, chàng nhẹ nhàng rót hạt sương vào bình và lắc khẽ. Lắc một lúc thì nghe có tiếng nước dao động trong bình. Chàng lại hà thêm một làn hơi vào miệng bình. Để mũi vào ngửi thoáng qua, mùi rượu thơm ngát tỏa lên. Chàng mỉm cười, thong thả rót rượu ra cái chén nhỏ...

Hương đêm pha với hương rượu thơm thoang thoảng một vùng. Chàng thong thả hớp từng hớp nhỏ, nhìn lên bầu trời đầy sao, tư lự... Chàng rút chiếc sáo làm bằng trúc ra đưa lên môi, thổi lên một điệu nhạc nhẹ nhàng... Nhưng chỉ thổi được một lúc, chàng lại lắc đầu, tâm thức hình như đang xôn xao đầy vọng tưởng nên không thể thổi được một khúc nhạc nào ra hồn. Lòng bâng khuâng muốn biết, duyên nghiệp giữa mình với nàng công chúa kiếp trước ra sao?

Chàng lại rót rượu vào chén...

Lần này, chàng không uống, nâng chén rượu lên và nhìn xuống mặt rượu, mờ mờ, chỉ thấy bóng của trăng... Chàng muốn tìm kiếm xem nghiệp duyên mình với nàng công chúa trong những kiếp quá khứ. Dù biết rằng tâm lực còn kém, khó có thể “nhìn” được tiền kiếp mình, nhưng chàng vẫn hy vọng có thể nhìn thấy được ít nhiều một vài mảnh quá khứ. Chàng bắt đầu điều hòa hơi thở, nhập định, chăm chú phổ tâm thức vào chén rượu. Độ khoảng một trống canh thì... Ô kià, lạ lùng thay, mặt rượu trong chén hơi gợn sóng. Bóng trăng xao động vỡ ra thành ngàn mảnh, mờ nhòa, rồi hiện ra một hình ảnh khác ngày càng rõ dần...

***

Đó là hình ảnh một vị Bà La Môn áo vải, hình như còn rất trẻ. Chàng đang đi trên một con đường dẫn vào một thành phố lớn. Trên người dính đầy bụi đất như vừa trải qua một cuộc hành trình dài xa. Khuôn mặt người Bà La Môn rất khôi ngô, với đôi mắt trong sáng luôn nhìn thẳng. Chàng có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy dân chúng trong vùng rất nhộn nhịp. Mọi nơi, mọi chốn, họ đều treo đèn kết hoa và có nhiều nơi còn thêm tiếng nhã nhạc vang lừng... Điều lạ là trên con lộ chính dẫn vào thành phố, dân chúng đứng bên đường ôm những bó hoa rực rỡ, có người còn cởi những chiếc áo đắt tiền của mình trải trên mặt lộ như đang cung nghinh, chờ đợi một nhân vật cực kỳ quan trọng nào đó đi qua. Người Bà La Môn nhìn quanh, thấy cuối đường có một thiếu nữ đang ôm bảy cành hoa vô ưu đi ngược chiều. Khuôn mặt nàng được phủ lên một tấm voan mỏng. Thấp thoáng qua khuôn voan, chàng nhìn thấy đôi mắt nàng đang mơ màng nghĩ đến điều gì đó – chắc hẳn là vui lắm – nên đôi môi mọng của nàng như muốn mỉm cười...

– Này cô... (người Bà La Môn lên tiếng)

Thiếu nữ giật mình vì tiếng gọi của vị Bà La Môn trẻ. Nàng dừng lại, nụ cười và đôi mắt mơ mộng chợt tắt, thay vào đó một khuôn mặt nghiêm trang. Nàng chắp tay trước ngực như một lời chào:

Xin lỗi. Ông cần gì?

– Trong thành này có chuyện gì sắp xảy ra mà dân chúng nhộn nhịp thế? Và cô cầm bảy cành hoa vô ưu đi đâu vậy?

Thiếu nữ ngạc nhiên, nhìn vị Bà La Môn hỏi lại:

– Ông không biết sao? Hôm nay, đức Phật Nhiên Đăng sẽ đi ngang qua đây. Bảy cành hoa vô ưu này là để dâng lên Ngài. Ngài là một vị Phật – Đấng Nhất Thiết Chủng Trí - Thật may mắn cho ai có cơ duyên được gặp Ngài...

Người Bà La Môn trẻ nghe thiếu nữ nói đến một vị “Nhất Thiết Chủng Trí” thì trong tâm sinh hoan hỷ tột cùng. Có phải đấy không? Chẳng phải chàng đã từng lặn lội bao nhiên năm nay tìm thầy học đạo, tìm một vị “biết tất cả các pháp” đó sao? Chàng nghe trong tâm rộn lên một niềm vui và đồng thời muốn khởi tâm cúng dường vị Phật này. Chàng lần trong túi, biết chắc rằng mình chỉ có vỏn vẹn mười hai đồng tiền vàng, số tiền này chàng đã làm việc trong mười năm để có đủ tiền báo ơn thầy. Nhưng chuyện cúng dường cho đấng Nhất Thiết Chủng Trí cần hơn. Nghĩ bụng, mình sẽ lấy số tiền này mua hoa cúng dường Phật trước, rồi sẽ lại đi kiếm tiền để trả ơn thầy sau. Hoan hỷ, chàng hỏi:

– Hãy chỉ cho tôi biết, cô mua hoa này ở đâu, vì tôi cũng muốn mua hoa cúng dường Ngài...

– Rất tiếc, đây chính là bảy cành hoa cuối cùng tôi mua ở chợ. Bây giờ không còn hoa để ông mua nữa đâu!

Nghe thiếu nữ nói vậy, vị Bà La Môn trẻ hơi thất vọng, rồi đề nghị:

– Hay là cô để lại tôi bảy cành hoa vô ưu này với mười hai đồng tiền vàng nhé?

Thiếu nữ lắc đầu:

– Không được! Mười hai đồng tiền vàng chứ có đến trăm đồng tiền vàng tôi cũng không bán!

Thấy thiếu nữ cương quyết, vị Bà La Môn lại đề nghị:

– Hay cô cứ cầm mười hai đồng tiền vàng này giữ riêng. Còn hoa thì cô có bằng lòng cho tôi cùng chung cúng dường được chăng?

Nghe vị Bà La Môn đề nghị như vậy. Thiếu nữ mới nhìn thẳng vào mắt chàng nghiêm trang hỏi:

– Nếu như chàng nói như vậy có nghĩa rằng chàng cũng muốn dính dáng đến ta? Ta chỉ bằng lòng với một điều kiện thôi...

– !?

– Là chàng phải hứa đời đời kiếp kiếp sẽ làm chồng ta cho đến khi chàng đạt giác ngộ và độ cho ta...

Nghe thiếu nữ nói vậy, người Bà La Môn chẳng chịu, lắc đầu nguầy nguậy:

– Không được, không được! Ta không thể hứa với nàng như thế. Vì tâm thức của người nữ hay đa đoan lắt léo... Nàng sẽ cản trở con đường tu tập của ta. Cản trở những hạnh ta muốn làm, như khi ta tu tập bố thí, có thể phải bố thí tất cả của cải, ruộng vườn, nhà cửa, nhẫn đến cả cái thân xác này nữa...

Thiếu nữ vẫn nghiêm trang:

– Ta sẽ nhẫn chịu được tất cả. Chỉ cần chàng hứa một lời...

– Ý nàng muốn bảo...?

– Phải, ta sẽ không bao giờ cản trở chàng trên con đường tu tập...

Vậy thì tốt lắm! Nàng hãy mau đưa ta mấy cành hoa để ta đem đi cúng Phật!

(Trích một điển tích trong kinh)

***

Mặt rượu lại gợn sóng, rồi các hình ảnh dần dần biến mất. Ếch cố dụng tâm, nhưng cũng không thể nhìn thêm được chút nào...

Chàng tư lự, nhủ thầm: “À, hóa ra là thế! Trong một tiền kiếp nào đó, ta và công chúa đã từng có những duyên nghiệp với nhau. Kiếp này gặp lại, cùng nương nhau đi tìm giáo pháp...”

Chàng đưa ly rượu lên môi, nhấp một hớp, lòng bâng khuâng, bồi hồi với duyên nghiệp trùng trùng...

Xa xa, ánh mặt trời đã le lói ló dạng ở phương Đông...

Thì ra, đêm đã tàn...

Một ngày mới lại bắt đầu...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34372)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16877)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22981)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13060)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22199)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14871)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23594)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24127)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23653)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17153)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19367)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14429)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13851)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14760)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17366)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12687)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13877)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10417)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14716)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17207)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12554)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12723)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10379)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28722)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10713)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11139)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16883)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15786)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13347)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12565)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11375)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19317)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12253)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28631)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10057)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21536)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12800)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17831)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26255)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11713)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10858)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22764)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12052)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10617)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11422)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11542)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant