Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Duyên nghiệp

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 7075)
Chương 7: Duyên nghiệp

ĐÔI BẠN HÀNH HƯƠNG
Chiêu Hoàng

Chương 7: Duyên nghiệp

Tối hôm đó, họ dừng chân tại một quán trọ. Vì công chúa đã vét hết tiền cho ăn mày, nên phải cầm cái vòng đeo tay cho chủ quán và bảo:

– Ông hãy đem chiếc vòng này đổi thành bạc và cho ta một căn phòng lớn.

Gã chủ quán nhìn sơ qua chiếc vòng thấy nét khắc rất tinh xảo, biết ngay rằng đó là một vật rất quý giá, nên càng tỏ vẻ khúm núm và chiều đãi khách quý hơn.

Đó là một căn phòng có cửa sổ nhìn ra sau vườn. Thoạt nhìn, khu vườn được trồng tỉa rất tươm tất và thanh nhã. Góc vườn là một hòn non bộ với thác nước chảy róc rách nghe rất vui tai. Tuy là nhân tạo, nhưng cách kiến trúc cũng khá cầu kỳ. Chung quanh thác, chủ nhân trồng vài cây liễu tô điểm thêm các loại hoa đủ màu thi nhau đua sắc. Công chúa rất ưa thích hoa, nhất là các loài lan. Có những loại cánh nó mong manh nhỏ bé, có loại trắng nuốt như ngọc.

Vẫn như thường lệ, công chúa cũng làm một chiếc giường nhỏ cho Ếch, nàng vốn giàu tưởng tượng và có khiếu mỹ thuật, nên chiếc giường luôn luôn được nàng tô điểm thêm bằng những cánh hoa. Sau khi về đến phòng, công chúa cảm thấy mệt mỏi một cách lạ thường, nàng đi ngủ ngay, nhưng cũng không quên chúc Ếch một đêm ngon giấc.

Từ khi gặp được thằng bé ăn mày, Ếch bỗng trở nên tư lựít nói. Công chúa có hỏi điều gì thì cũng chỉ ậm ừ cho qua. Hình như trong tâm Ếch dấy lên một nỗi muộn phiền nào đó. Công chúa tôn trọng nỗi buồn của bạn, nên cũng không tò mò hỏi han thêm.

Còn Ếch thì bỗng thấy lòng mình chùng lại, chàng đột nhiên nhớ đến những ngày tháng miệt mài trong thiền định, nhớ đến niềm cô tịch và mùi hương trầm thơm ngát trong những buổi chiều nắng quải. Nhận ra cuộc đời muôn mặt. Tình yêu, cái chết, niềm vui thiền định, nỗi cô đơn v.v... Tất cả... tất cả... đều là những cảm giác cần phải chứng nghiệm và kinh qua. Ngày xưa, trong những ngày tháng miệt mài đi sâu vào tâm thức, chàng thường phải đối diện với nỗi cô đơn, những muộn phiền của ma ý, những nỗi khắc khoải của các “công án” hóc búa như một mũi dao sắc đâm sâu trong trái tim, rút ra cũng chẳng được, mà để nguyên như thế cũng chẳng xong. Nhưng bù lại, chàng có được niềm an vui của thiền lạc.

Ngày ấy... Ôi! Sao mới có vài năm mà nghe chừng như cả thế kỷ. Ngày ấy, trong những lúc tu tập, chàng đã say mê trong thiền lạc (đó cũng là một “căn bệnh trầm kha” của người tu hành). Có những lúc chàng cảm thấy như vong thân, không còn thấy sự hiện diện của sắc thân nữa, hình như nó thành ánh sáng, hòa tan vào hư không. Những lúc như vậy, chàng cố gắng an trú trong trạng thái đó càng lâu càng hay, rồi đâm ra sống xa vời với thực tế. Không muốn xả thiền nữa, vì cứ hễ xả thiền, chàng lại phải trở về với đời sống thực, đầy cấu nhiễm, đầy vọng tưởng xôn xao...

Rồi đến một đêm trời đầy sao như hôm nay. Oan khiên lại đến, chỉ vì một niệm sân hận mà chàng phải mang thân ếch thế này...

Tối hôm ấy, đang trong lúc thiền định thì chàng bỗng nghe tiếng ồm ộp của một chú ếch. Hình như nó đang gọi bạn, hay đang hát. (Ta nên biết một điều, khi tu hành đến mức độ có cảm giác vong thân, thì lúc đó tâm thức khá thanh tịnh, có thể “đọc” được một chút tâm niệm của những chúng hữu tình bình thường). Dưới ánh trăng, đó là một con Ếch màu xanh rêu đậm, nó đậu trên một lá sen lớn, đang rống cổ lên “hát” say sưa. Để ý kỹ, cũng thấy có nhịp điệu hẳn hòi, khi cao, khi thấp... Ban đầu, chàng cũng không để ý lắm vì chàng vẫn thường quen với những âm thanh rỉ rả của ve sầu, ếch, nhái. Nhưng dần dà, hình như âm thanh càng ồm ồm hơn, tiếng kêu thật là nhức óc, xoáy tai, không thể tập trung vào thiền định được nữa, chàng liền từ từ xả thiền...

Đêm hôm sau, cũng đang trong công phu thiền định, thì chú ếch hôm qua lại nhảy lên lá sen ấy, cũng cất tiếng kêu. Độ một lúc thì có tiếng ếch thứ hai đáp lại, có lẽ đó là một chị ếch, nên âm thanh vừa ngắn lại vừa trong. Cả hai khấy động sự yên tĩnh trong đêm khuya, chàng có cảm tưởng chúng nó đang say sưa hoà nhịp, kẻ tung, người hứng, như đang khiêu vũ với nhau bằng âm thanh ồm ộp ấy, như muốn trêu tức chàng...

Lòng xôn xao không chủ định. Chàng lại xả thiền...

Đêm thứ ba, rồi đêm sau, đêm sau nữa... Gần cả tuần lễ chàng không cách gì thiền định được, cứ hễ sắp nhập thiền thì tiếng ếch lại kêu. Riết rồi, tâm bị phân. Đầu óc chàng trở nên... rình rập và chờ đợi âm thanh ấy đến. Càng chờ đợi, chàng càng nóng nảy, tâm càng vọng động.

Sang đến đêm thứ mười lăm, đêm đó lại là ngày rằm, ánh trăng chan hoà khắp nơi, mặt trăng to như chiếc bánh treo lơ lửng trên không. Lòng dặn lòng rằng đêm nay ta quyết chí nhập thiền và đóng hết tất cả các giác quan để không bị quấy nhiễu nữa... Canh một qua đi trong yên lặng, sang đến đầu canh hai thì tiếng ếch bất thình lình lại nổi lên. Lần này như ròn rã, như chát chúa, như muốn trêu tức chàng. Đêm nay, chỉ có tiếng kêu của một chú ếch. Kêu một lúc, nó ngừng bặt, rồi bất thình lình, nó nhảy từ hòn đá phía bên kia bờ rạch qua sát phía bên chỗ chàng đang ngồi cách khoảng gang tay, kêu lên một tiếng “ộp” lớn.

Không thể chịu đựng được nữa, chàng lập tức xả thiền và vói ngay hòn đá bên cạnh đập mạnh xuống. Con ếch chết tức thì... Còn chàng thì choáng váng, bần thần. Phần vì sự hối hận lên đến tột đỉnh vì đã phạm giới sát. Phần vì xuất thiền quá nhanh nên kinh mạch bị rối loạn, chàng thấy bầu trời quay cuồng như mình đang bị xoáy trong một cơn lốc lớn. Chàng cố ôm lấy xác ếch cầu nguyện trước khi ngã quỵ xuống và ngất đi...

Tỉnh dậy, thấy mình biến thành con ếch nhỏ (Do vì công phu tu hành, nên có đuợc tam sắc cực kỳ đẹp mắt và vẫn còn nói được tiếng người) Nghe đâu đây trên không trung có một tiếng nói rất mơ hồ nhưng rõ rệt:

– Ngươi phải chịu quả báo làm thân ếch trong ba năm. Phải lăn lộn vào dòng đời để học được thế nào là lòng yêu thương, bác ái... Trừ phi ngươi gặp được một người yêu thươngcải hóa được tâm hồn khô cằn chỉ cầu trí huệ của ngươi thì mới được trở lại làm người trước khi thời hạn chấm dứt...

Từ đó, chàng đi lang thang đây đó. Tìm mãi bài học vỡ lòng về yêu thương. Cho đến khi cơ duyên chín mùi thì gặp được nàng công chúa...

Ngày nay, càng đi sâu vào đời, nếm được hương vị của tình yêu trai gái (mà ngày trước chàng rất... khinh bỉ và coi thường). Chàng cũng thấy tình yêu kỳ diệu biết bao. Nó rất lung linh đẹp như một bức tranh cổ, như hư, như thực...

Do sự tu tập thiền định khá thuần thục, nên khi dối diện với tình yêu dành cho Công chúa, thỉnh thoảng trong lòng chàng lại nảy lên một sự tiếc nuối trong những ngày tháng tu tập xưa. Sợ rằng nếu cứ đắm đuối trong tình cảm bình thường của thế gian này, thì khó có thể đạt đến Giải Thoát. (Chàng có biết đâu rằng, tình yêu trai gái chính là cái bóng dáng, là “mặt bên kia” của lòng từ bi. Mà muốn có, bắt buộc ta phải đi từ mức độ thấp nhất. Ít nhất cũng có được tình yêu – mà chàng cho là rất “đời”–, rồi từ tình yêu ấy, đi xa hơn – trong một chánh kiến do sự tu tậpdần dần sẽ trở thành tình bác ái, lòng vị tha, rồi lên cao hơn, sẽ phải tu tập về tâm từ, tâm bi để có thể phát triển được tâm Bồ Đề).

Vì không biết được điều này, nên lòng chàng đang hoang mang giữa bờ mé của Đời và Đạo. Chàng cảm thấy lòng mình dấy lên một tình cảm khó tả... Một nỗi muộn phiền lảng vảng đâu đây...

***

Đêm đã rất sâu, bầu trời như trong hơn, những vì sao càng lung linh, lấp lánh trên cao.

Đợi đến khi Công chúa đã ngủ say. Ếch lắc mình, chiếc áo khoác mang hình ếch rớt xuống, chàng hiện lại nguyên hình người và lẻn ra sau vườn. Mùi hương đêm chen lẫn với hương hoa thơm ngát một vùng. Chàng tần ngần ngừng lại bên hòn non bộ cạnh thác nước nhân tạo. Tiếng róc rách của nước làm chàng nhớ đến tiếng thác hùng vĩ hôm nào cùng công chúa trong cánh rừng bên một chiếc hang nhỏ. Lòng xôn xao quá, mới đây mà đã trở thành kỷ niệm. Rồi sẽ ra sao sau khi tìm được giáo pháp? Sớm muộn gì cũng phải chia tay. Đời là vậy, khi hợp, khi tan... Nỗi buồn miên man vô tận thường đi theo ngay sau bóng dáng của niềm vui. Chàng ngạc nhiên đến tận cùng khi “ngắm nhìn” tâm thức mình lao xao đầy vọng tưởng. Thật ra, trên mỗi bề mặt của tâm thức, dẫu là vọng hay chân cũng đều mang một dáng dấp giá trị nào đó cần phải kinh qua. (Tặc lưỡi, chàng nghĩ) Hay ta cứ đi sâu vào vọng cho đến tận cùng xem sao. Điều quan trọng là vào mà còn tỉnh thức để đi ra mới thật là Đạo.

Đêm càng sâu...

Đâu đây, tiếng côn trùng rả rích giữa đêm khuya....

Ếch ngồi xuống chiếc bàn đá bên cạnh thác nước. Chàng khẽ hái một cánh lá rồi thổi tâm lực vào đó. Lạ lùng thay, cánh lá biến thành một cái khay con, trên có một bình rượu cổ cao và một cái chén nhỏ... Chàng lại hái một cánh lá khác, trên còn đọng một hạt sương trong suốt như thủy tinh, chàng nhẹ nhàng rót hạt sương vào bình và lắc khẽ. Lắc một lúc thì nghe có tiếng nước dao động trong bình. Chàng lại hà thêm một làn hơi vào miệng bình. Để mũi vào ngửi thoáng qua, mùi rượu thơm ngát tỏa lên. Chàng mỉm cười, thong thả rót rượu ra cái chén nhỏ...

Hương đêm pha với hương rượu thơm thoang thoảng một vùng. Chàng thong thả hớp từng hớp nhỏ, nhìn lên bầu trời đầy sao, tư lự... Chàng rút chiếc sáo làm bằng trúc ra đưa lên môi, thổi lên một điệu nhạc nhẹ nhàng... Nhưng chỉ thổi được một lúc, chàng lại lắc đầu, tâm thức hình như đang xôn xao đầy vọng tưởng nên không thể thổi được một khúc nhạc nào ra hồn. Lòng bâng khuâng muốn biết, duyên nghiệp giữa mình với nàng công chúa kiếp trước ra sao?

Chàng lại rót rượu vào chén...

Lần này, chàng không uống, nâng chén rượu lên và nhìn xuống mặt rượu, mờ mờ, chỉ thấy bóng của trăng... Chàng muốn tìm kiếm xem nghiệp duyên mình với nàng công chúa trong những kiếp quá khứ. Dù biết rằng tâm lực còn kém, khó có thể “nhìn” được tiền kiếp mình, nhưng chàng vẫn hy vọng có thể nhìn thấy được ít nhiều một vài mảnh quá khứ. Chàng bắt đầu điều hòa hơi thở, nhập định, chăm chú phổ tâm thức vào chén rượu. Độ khoảng một trống canh thì... Ô kià, lạ lùng thay, mặt rượu trong chén hơi gợn sóng. Bóng trăng xao động vỡ ra thành ngàn mảnh, mờ nhòa, rồi hiện ra một hình ảnh khác ngày càng rõ dần...

***

Đó là hình ảnh một vị Bà La Môn áo vải, hình như còn rất trẻ. Chàng đang đi trên một con đường dẫn vào một thành phố lớn. Trên người dính đầy bụi đất như vừa trải qua một cuộc hành trình dài xa. Khuôn mặt người Bà La Môn rất khôi ngô, với đôi mắt trong sáng luôn nhìn thẳng. Chàng có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy dân chúng trong vùng rất nhộn nhịp. Mọi nơi, mọi chốn, họ đều treo đèn kết hoa và có nhiều nơi còn thêm tiếng nhã nhạc vang lừng... Điều lạ là trên con lộ chính dẫn vào thành phố, dân chúng đứng bên đường ôm những bó hoa rực rỡ, có người còn cởi những chiếc áo đắt tiền của mình trải trên mặt lộ như đang cung nghinh, chờ đợi một nhân vật cực kỳ quan trọng nào đó đi qua. Người Bà La Môn nhìn quanh, thấy cuối đường có một thiếu nữ đang ôm bảy cành hoa vô ưu đi ngược chiều. Khuôn mặt nàng được phủ lên một tấm voan mỏng. Thấp thoáng qua khuôn voan, chàng nhìn thấy đôi mắt nàng đang mơ màng nghĩ đến điều gì đó – chắc hẳn là vui lắm – nên đôi môi mọng của nàng như muốn mỉm cười...

– Này cô... (người Bà La Môn lên tiếng)

Thiếu nữ giật mình vì tiếng gọi của vị Bà La Môn trẻ. Nàng dừng lại, nụ cười và đôi mắt mơ mộng chợt tắt, thay vào đó một khuôn mặt nghiêm trang. Nàng chắp tay trước ngực như một lời chào:

Xin lỗi. Ông cần gì?

– Trong thành này có chuyện gì sắp xảy ra mà dân chúng nhộn nhịp thế? Và cô cầm bảy cành hoa vô ưu đi đâu vậy?

Thiếu nữ ngạc nhiên, nhìn vị Bà La Môn hỏi lại:

– Ông không biết sao? Hôm nay, đức Phật Nhiên Đăng sẽ đi ngang qua đây. Bảy cành hoa vô ưu này là để dâng lên Ngài. Ngài là một vị Phật – Đấng Nhất Thiết Chủng Trí - Thật may mắn cho ai có cơ duyên được gặp Ngài...

Người Bà La Môn trẻ nghe thiếu nữ nói đến một vị “Nhất Thiết Chủng Trí” thì trong tâm sinh hoan hỷ tột cùng. Có phải đấy không? Chẳng phải chàng đã từng lặn lội bao nhiên năm nay tìm thầy học đạo, tìm một vị “biết tất cả các pháp” đó sao? Chàng nghe trong tâm rộn lên một niềm vui và đồng thời muốn khởi tâm cúng dường vị Phật này. Chàng lần trong túi, biết chắc rằng mình chỉ có vỏn vẹn mười hai đồng tiền vàng, số tiền này chàng đã làm việc trong mười năm để có đủ tiền báo ơn thầy. Nhưng chuyện cúng dường cho đấng Nhất Thiết Chủng Trí cần hơn. Nghĩ bụng, mình sẽ lấy số tiền này mua hoa cúng dường Phật trước, rồi sẽ lại đi kiếm tiền để trả ơn thầy sau. Hoan hỷ, chàng hỏi:

– Hãy chỉ cho tôi biết, cô mua hoa này ở đâu, vì tôi cũng muốn mua hoa cúng dường Ngài...

– Rất tiếc, đây chính là bảy cành hoa cuối cùng tôi mua ở chợ. Bây giờ không còn hoa để ông mua nữa đâu!

Nghe thiếu nữ nói vậy, vị Bà La Môn trẻ hơi thất vọng, rồi đề nghị:

– Hay là cô để lại tôi bảy cành hoa vô ưu này với mười hai đồng tiền vàng nhé?

Thiếu nữ lắc đầu:

– Không được! Mười hai đồng tiền vàng chứ có đến trăm đồng tiền vàng tôi cũng không bán!

Thấy thiếu nữ cương quyết, vị Bà La Môn lại đề nghị:

– Hay cô cứ cầm mười hai đồng tiền vàng này giữ riêng. Còn hoa thì cô có bằng lòng cho tôi cùng chung cúng dường được chăng?

Nghe vị Bà La Môn đề nghị như vậy. Thiếu nữ mới nhìn thẳng vào mắt chàng nghiêm trang hỏi:

– Nếu như chàng nói như vậy có nghĩa rằng chàng cũng muốn dính dáng đến ta? Ta chỉ bằng lòng với một điều kiện thôi...

– !?

– Là chàng phải hứa đời đời kiếp kiếp sẽ làm chồng ta cho đến khi chàng đạt giác ngộ và độ cho ta...

Nghe thiếu nữ nói vậy, người Bà La Môn chẳng chịu, lắc đầu nguầy nguậy:

– Không được, không được! Ta không thể hứa với nàng như thế. Vì tâm thức của người nữ hay đa đoan lắt léo... Nàng sẽ cản trở con đường tu tập của ta. Cản trở những hạnh ta muốn làm, như khi ta tu tập bố thí, có thể phải bố thí tất cả của cải, ruộng vườn, nhà cửa, nhẫn đến cả cái thân xác này nữa...

Thiếu nữ vẫn nghiêm trang:

– Ta sẽ nhẫn chịu được tất cả. Chỉ cần chàng hứa một lời...

– Ý nàng muốn bảo...?

– Phải, ta sẽ không bao giờ cản trở chàng trên con đường tu tập...

Vậy thì tốt lắm! Nàng hãy mau đưa ta mấy cành hoa để ta đem đi cúng Phật!

(Trích một điển tích trong kinh)

***

Mặt rượu lại gợn sóng, rồi các hình ảnh dần dần biến mất. Ếch cố dụng tâm, nhưng cũng không thể nhìn thêm được chút nào...

Chàng tư lự, nhủ thầm: “À, hóa ra là thế! Trong một tiền kiếp nào đó, ta và công chúa đã từng có những duyên nghiệp với nhau. Kiếp này gặp lại, cùng nương nhau đi tìm giáo pháp...”

Chàng đưa ly rượu lên môi, nhấp một hớp, lòng bâng khuâng, bồi hồi với duyên nghiệp trùng trùng...

Xa xa, ánh mặt trời đã le lói ló dạng ở phương Đông...

Thì ra, đêm đã tàn...

Một ngày mới lại bắt đầu...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14307)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11846)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14369)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13282)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14650)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25266)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27897)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26375)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17237)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16529)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15920)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22150)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17139)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24929)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21992)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19082)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16175)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21728)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16791)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14674)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16713)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18789)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16621)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18017)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12935)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14950)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12724)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13893)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14609)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28049)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27218)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14353)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20982)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24200)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28705)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14743)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13304)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16464)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27260)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12022)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21506)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant