Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 07: Tình dụcHôn nhân

12 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6839)
Chương 07: Tình dục và Hôn nhân

J. KRISHNAMURTI
GIÁO DỤCÝ NGHĨA CỦA SỐNG
Education and the Significance of Life
Lời dịch: Ông Không
– Tháng 8-2011

CHƯƠNG VII

TÌNH DỤCHÔN NHÂN

G

iống như những vấn đề khác của con người, vấn đề của những đam mê và những thôi thúc thuộc tình dục của chúng ta là một vấn đề phức tạp và khó khăn, và nếu chính người giáo dục đã không thâm nhập nó sâu thẳm và đã thấy nhiều hàm ý của nó, làm thế nào anh ấy có thể giúp đỡ những học sinh mà anh ấy đang giáo dục? Nếu phụ huynh hay giáo viên bị trói buộc trong những rối loạn của tình dục, làm thế nào anh ấy có thể hướng dẫn đứa trẻ? Chúng ta có thể giúp đỡ những học sinh nếu chính chúng ta không hiểu rõ ý nghĩa của toàn vấn đề này? Phương cách người giáo dục chuyển tải một hiểu rõ về tình dục phụ thuộc vào trạng thái của cái trí riêng của anh ấy; nó phụ thuộc vào liệu anh ấy thanh thản vô tư, hay bị nuốt trọn bởi những ham muốn riêng của anh ấy.

 Lúc này, đối với chúng ta tại sao tình dục là một vấn đề, đầy hoang mang và xung đột? Tại sao nó đã trở thành một nhân tố thống trị trong những sống của chúng ta? Một trong những lý do chính là rằng chúng ta không sáng tạo; và chúng ta không sáng tạo bởi vì toàn văn hóa thuộc luân lýxã hội của chúng ta, cũng như những phương pháp được giáo dục của chúng ta, đều được đặt nền tảng trên sự phát triển của mảnh trí năng. Giải pháp cho vấn đề của tình dục này nằm trong sự hiểu rõ rằng sáng tạo không xảy ra qua vận hành của mảnh trí năng. Ngược lại, có sáng tạo chỉ khi nào mảnh trí năng bất động.

 Mảnh trí năng, hiểu theo cách thông thường là cái trí, chỉ có thể lặp lại, nhớ lại, nó liên tục đang thêu dệt những từ ngữ mới và đang sắp xếp những từ ngữ cũ; và bởi vì hầu hết chúng ta đều cảm thấy và trải nghiệm chỉ qua bộ não, chúng ta sống một cách loại trừ dựa trên những từ ngữ và những lặp lại máy móc. Chắc chắn điều này không là sáng tạo; và bởi vì chúng ta không sáng tạo, phương tiện duy nhất để sáng tạo còn sót lại cho chúng tatình dục. Tình dục là của cái trí, và cái mà của cái trí phải tự đáp ứng cho chính nó hay có sự thất vọng.

 Những suy nghĩ của chúng ta, những sống của chúng ta đều náo động, vô vị, giả dối, rỗng tuếch; thuộc cảm xúc chúng ta thèm khát, thuộc tôn giáo và thuộc trí năng chúng ta lặp lại, đờ đẫn; thuộc xã hội, thuộc chính trị và thuộc kinh tế chúng ta bị tổ chức, bị kiểm soát. Chúng ta không là những người hạnh phúc, chúng ta không tràn trề sức sống, dư thừa hân hoan; ở nhà, trong kinh doanh, tại nhà thờ, nơi trường học, chúng ta không bao giờ trải nghiệm một trạng thái của hiện diện sáng tạo, không có sự giải phóng thăm thẳm trong suy nghĩ và hành động hàng ngày của chúng ta. Bị trói buộcbị giam cầm từ mọi phía, theo tự nhiên tình dục trở thành lối thoát duy nhất của chúng ta, một trải nghiệm phải được sục sạo lặp đi và lặp lại bởi vì trong khoảnh khắc nó trao tặng trạng thái của hạnh phúc đó mà hiện diện khi không có cái tôi. Không phải tình dụctiếp tục một vấn đề, nhưng sự ham muốn để có lại trạng thái của hạnh phúc, để kiếm được và duy trì sự vui thú, dù nó là tình dục hay bất kỳ thứ nào khác.

 Điều gì chúng ta đang thực sự tìm kiếm là sự đam mê mãnh liệt của phủ nhận cái tôi, trạng thái của đồng hóa cùng cái gì đó mà trong nó chúng ta tuyệt đối không còn cái tôi. Bởi vì cái tôi quá nhỏ nhoi, tầm thường, và là một nguồn của đau khổ, có ý thức hay không ý thức, chúng ta muốn quên bẵng cái tôi trong sự hứng khởi thuộc cá thể hay tập thể, trong những suy nghĩ kênh kiệu, hay trong hình thức thô thiển nào đó của cảm xúc.

 Khi chúng ta tìm kiếm để tẩu thoát khỏi cái tôi, phương tiện của tẩu thoát là rất quan trọng, và vậy là chúng cũng trở thành những vấn đề đau khổ cho chúng ta. Nếu chúng ta không thâm nhậphiểu rõ những cản trởngăn cản đang sống sáng tạo, mà là sự tự do khỏi cái tôi, chúng ta sẽ không hiểu rõ vấn đề của tình dục.

 Một trong những cản trở đối với đang sống sáng tạo là sự sợ hãi, và sự kính trọng là một biểu hiện của sự sợ hãi đó. Những người được kính trọng, những người bị giới hạn vào luân lý, không nhận biết được ý nghĩa sâu thẳm và phong phú của sự sống. Họ bị bao bọc trong những bức tường của sự đứng đắn riêng của họ và không thể thấy vượt khỏi chúng. Luân lý được tô điểm của họ, được đặt nền tảng trên những lý tưởng và những niềm tin tôn giáo, không liên quan gì đến sự thật; và khi họ ẩn náu đằng sau nó họ đang sống trong thế giới của những ảo tưởng riêng của họ. Bất kể luân lý tự áp đặt và gây thỏa mãn riêng của họ, những người được kính trọng cũng bị hoang mang, đau khổxung đột.

 Sự sợ hãi, mà là kết quả của sự ham muốn an toàn của chúng ta, khiến cho chúng ta thanh thản, bắt chước và đầu hàng sự chi phối, và thế là nó ngăn cản đang sống sáng tạo. Sống sáng tạo là sống trong sự tự do, mà là không sợ hãi; và có thể có một trạng thái của sáng tạo chỉ khi nào cái trí không bị trói buộc trong sự ham muốn và sự thỏa mãn của ham muốn. Chỉ nhờ vào nhìn ngắm những quả tim và những cái trí riêng của chúng ta bằng sự chú ý nhạy cảm thì chúng ta mới có thể xóa sạch những phương cách giấu giếm của sự ham muốn của chúng ta. Chúng ta càng chín chắnthương yêu nhiều bao nhiêu, càng có ít ham muốn chi phối cái trí bấy nhiêu. Chỉ khi nào không có tình yêu thì cảm xúc mới trở thành một vấn đề ám ảnh.

 Muốn hiểu rõ vấn đề của cảm xúc này, chúng ta sẽ phải tiếp cận nó, không phải từ bất kỳ một phương hướng nào, nhưng từ mọi phương hướng, giáo dục tôn giáo, xã hộiluân lý. Những cảm xúc đã trở thành quan trọng hầu như ưu tiên nhất đối với chúng ta bởi vì chúng ta đặt sự nhấn mạnh quá nhiều vào những giá trị giác quan.

 Qua những quyển sách, qua những quảng cáo, qua điện ảnh, và trong nhiều cách khác, những khía cạnh khác nhau của cảm xúc liên tục đang được nhấn mạnh. Những trình diễn tôn giáo và chính trị, nhà hát và những hình thức khác của vui chơi, tất cả đều khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự kích thích tại những mức độ khác nhau của sự tồn tại của chúng ta; và chúng ta hài lòng trong sự khuyến khích này. Ham muốn nhục dục đang được khai triển trong bất kỳ hình thức nào có thể thực hiện được, và tại cùng thời điểm, lý tưởng của sự trong trắng lại được cổ vũ. Thế là một mâu thuẫn được thiết lập trong chúng ta; và lạ lùng thay, chính sự mâu thuẫn này đang được khích động.

 Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ sự theo đuổi của cảm xúc, mà là một trong những hoạt động chính của cái trí, thì sự vui thú, hứng khởi và bạo lực mới không còn là một đặc tính thống trị trong những sống của chúng ta. Do bởi chúng ta không thương yêu, nên tình dục, sự theo đuổi của cảm giác, đã trở thành vấn đề ám ảnh. Khi có tình yêu, có trong trắng; nhưng cái người mà cố gắng trong trắng, không trong trắng. Đạo đức hiện diện cùng thông minh, nó hiện diện khi có sự hiểu rõ về cái gì là.

 Khi chúng ta còn trẻ, chúng ta có sự thôi thúc mạnh mẽ về tình dục, và hầu hết chúng ta đều cố gắng xử lý những ham muốn này bằng cách kiểm soát hay rèn luyện nó, bởi vì chúng ta nghĩ rằng nếu không có loại kiềm chế nào đó chúng ta sẽ bị ám ảnh bởi dục vọng. Những tôn giáo có tổ chức quan tâm nhiều đến luân lý tình dục; nhưng họ cho phép chúng ta phạm tội bạo lực và sát nhân nhân danh chủ nghĩa ái quốc, buông thả trong sự ganh tị và sự độc ác xảo quyệt, và theo đuổi quyền hành và thành công. Tại sao chúng ta phải quan tâm đến loại đặc biệt này của luân lý, và không tấn công sự trục lợi, sự tham lam và chiến tranh? Liệu không phải do bởi những tôn giáo có tổ chức, là bộ phận của môi trường sống mà chúng ta đã tạo ra, có được chính sự tồn tại của chúng nhờ vào những sợ hãi và những hy vọng của chúng ta, vào sự ganh tị và sự phân chia của chúng ta, hay sao? Vì vậy, trong lãnh vực tôn giáo cũng như trong mọi lãnh vực khác, cái trí bị giam cầm trong những chiếu rọi của những ham muốn riêng của nó.

 Chừng nào còn không có sự hiểu rõ sâu thẳm về toàn qui trình của sự ham muốn, những trung tâm giáo dục hôn nhân như hiện nay nó tồn tại, dù ở phương Đông hay phương Tây, không thể trao tặng đáp án cho vấn đề tình dục. Tình yêu không bị tác động bởi việc ký một hợp đồng, nó cũng không bị đặt nền tảng trên một trao đổi của sự thỏa mãn, nó cũng không trên sự an toàn và sự thanh thản lẫn nhau. Tất cả những việc này đều của cái trí, và đó là lý do tại sao tình yêu chiếm một vị trí quá nhỏ nhoi trong những sống hàng ngày của chúng ta. Tình yêu không của cái trí, nó hoàn toàn độc lập khỏi sự suy nghĩ cùng những tính toán ranh mãnh của nó, những đòi hỏi và những phản ứng tự phòng vệ của nó. Khi có tình yêu, tình dục không bao giờ là một vấn đềdo bởi không có tình yêu mới tạo ra vấn đề.

 Những cản trở và những tẩu thoát của cái trí tạo ra vấn đề, và không phải tình dục hay bất kỳ vấn đề cụ thể nào khác; và đó là lý do tại sao rất quan trọng phải hiểu rõ qui trình của cái trí, những quyến rũ và những kinh tởm của nó, những phản ứng của nó đến vẻ đẹp, đến xấu xí. Chúng ta nên quan sát về chính chúng ta, nhận biết được chúng ta lưu tâm những con người như thế nào, chúng ta nhìn ngắm những người đàn ông và đàn bà như thế nào. Chúng ta nên thấy rằng gia đình trở thành một trung tâm của sự tách rời và của những hoạt động chống lại xã hội khi nó được sử dụng như một phương tiện của tự tiếp tục, vì lợi ích của tự quan trọng. Gia đìnhtài sản, khi được tập trung vào cái tôi cùng những ham muốn và những đòi hỏi luôn luôn chật hẹp của nó, trở thành công cụ của quyền hành và thống trị, một nguồn của xung đột giữa cá thểxã hội.

 Sự khó khăn của tất cả những vấn đề của con người này là rằng chính chúng ta, những phụ huynh và những giáo viên, đã trở nên hoàn toàn mệt mỏivô vọng, hoàn toàn hoang mang và không có an bình; sống có ảnh hưởng nặng nề vào chúng ta, và chúng ta muốn được thanh thản, chúng ta muốn được thương yêu. Bởi vì nghèo khóthiếu thốn trong chính chúng ta, làm thế nào chúng ta có thể hy vọng trao tặng loại giáo dục đúng đắn cho đứa trẻ?

 Đó là lý do tại sao vấn đề mấu chốt không là học sinh, nhưng người giáo dục; những quả tim và những cái trí riêng của chúng ta phải được tẩy sạch nếu chúng ta muốn có thể giáo dục những người khác. Nếu chính người giáo dục bị hoang mang, không chân thật, mất hút trong một hỗn loạn của những ham muốn riêng của anh ấy, làm thế nào anh ấy có thể chuyển tải sự thông minh hay giúp đỡ để tạo ra sự chân thật cho phương cách sống của một người khác? Nhưng chúng ta không là những cái máy để được hiểu rõ và được sửa chữa bởi những người chuyên môn; chúng ta là kết quả của một chuỗi thật dài của những ảnh hưởng và những biến cố, và mỗi người phải cởi bỏ và hiểu rõ cho chính anh ấy sự hỗn loạn của bản chất riêng của anh ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28200)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6694)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8792)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9322)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15393)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8259)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8687)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16740)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26989)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15661)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22547)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19486)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18367)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16216)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25654)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12892)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37872)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20101)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10721)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10044)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10564)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10397)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11047)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15245)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10849)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19704)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11714)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10787)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11252)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10113)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10573)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11559)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10898)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11411)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12166)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11071)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17786)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15252)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15724)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11006)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12118)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11050)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21863)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12099)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9184)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20185)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17264)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10106)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant