Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Hoa Sen Giữa Chợ

03 Tháng Mười 201100:00(Xem: 6677)
5. Hoa Sen Giữa Chợ

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG
Trần Kiêm Đoàn

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG 5
Hoa Sen Giữa Chợ

Nhật Ký Hành Hương 4 [1] với đề tài: Khi Tịnh tài sinh Bất tịnhvừa mới được đưa lên mạng lưới truyền thông đại chúng, người viết đã nhận được nhiều ý kiến từ phía người đọc. Hầu như tất cả những ý kiến đều biểu tỏ sự đồng tình về thực trạng tịnh tài sinh bất tịnh trong sinh hoạt tôn giáo nói chung và sinh hoạt Phật giáo nói riêng.

Đã có ý kiến quan ngại rằng, Phật tử tại gia mà lạm bàn tới sinh hoạt của giới xuất gia thì dễ rơi vào biên kiến “tăng thượng mạn”. Kẻ viết đôi dòng nhật ký hành hương nầy xin đảnh lễ thưa rằng, đạo Phật ra đời, tồn tại và phát triển trong một vùng đất phân ranh giai cấp gay gắt như xã hội Ấn Độ chẳng phải vì một phát kiến tình cờ. Nhưng vì đức Phật thấy rõ sự vô minh gây ra đau khổ. Con đường cứu khổdiệt khổ không phải là một phản ứng đấu tranh giai cấp thua thắng nhất thời. Điểm xuất phát của quá trình cứu khổdiệt khổ là phải tìm thấy được từ cái riêng hời hợt bên ngoài của sự phân chia giai cấp, còn có cái chung “máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn” thông qua biểu tượng Phật Tánh nằm sẵn trong mỗi sinh thể. Đạo Phật phủ nhận lề thói đem quyền uyhình tướng giả tạm làm thước đo “trí tuệ” để đè nhau.

Từ thời đức Phật còn tại thế, Ngài và các đệ tử thường dùng phương thức pháp thoại, pháp đàm và hội thoại để giảng kinh, diễn nghĩa. Đức Thế Tôn đã tiếp cận hoằng pháp với cả giai cấp Chiên Đà La, hàng thấp kém tận cùng trong đáy xã hội, đến hàng vua chúa Ấn Độ không phân biệt. Nếu có ai trong chúng ta ngày nay, phân ranh hình tướng để làm căn bản thiết lập đối thoại là hoàn toàn phi Phật đạo. Ngay kinh Kim Cươnglý thuyết tinh yếu nhất của giáo lý nhà Phật thì cũng là một hình thức pháp đàm giữa đức PhậtTrưởng lão Thiện Hiện. Trước khi giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa đức Phật đã vui vẻ đưa mắt nhìn năm nghìn người – gồm cả tứ chúngđứng dậy cáo từ lui ra vì tri thứccăn cơ của họ không khế hợp với nội dung bài giảng. Và, pho kinh làm căn bản cho tín lý Đại Thừa nầy cũng mang tính hội thoại giữa đức Phật với các đại đệ tử như Xá Lợi Phất, A Nan Đà, Văn Thù, Đại Thế Chí, La Hầu La…

Đức Phật là một bậc giác ngộ khai phóng khuyên bất cứ ai muốn theo Ngài thì cần thiết phải hiểu Ngài trước đã; đừng vì hình tướng của chiếc áo choàng hay định kiến chấp trướcbịt tai, che mắt theo nhau hay chống nhau. Chúng ta hôm nay chỉ là những hạt cát của muôn xưa từ phía sông Hằng dạt về phương Đông hay phương Tây đang lắng nghe nhau, có gì phải dè chừng, e ngại.

Các emails và điện thoại góp ý đến từ nhiều nơi, kể cả từ quê nhà và bên ngoài. Nhìn chung, chư tôn xuất giaPhật tử tại gia đều có mối ưu tưquan ngại tương đối giống nhau về vấn đề tác động tiêu cựctai hại của kinh tế thực dụng trên tịnh hạnh tu hành của giới xuất giatín tâm của đại chúng trong thời đại mới. Nội dung có nhiều mặt còn khuất lấp và nhiều khía cạnh còn khúc mắc. Nhưng đại thể thì những tấm lòng còn quan tâm tới sự thăng trầm của đạo pháp vẫn tiến tới một kết luận tương tự rằng:

blankXuất gia tu hành là một sự dấn thân vĩ đại, một quyết định dứt khoát nhất của một đời người. Đó là một hạnh nguyện chuyển từ tính phàm qua tính thánh siêu tuyệt trên sự nghĩ, bàn. Người đi tu là người can đảm chấp nhận từ bỏ tất cả mọi giá trị vinh hoa, phú quý đời thường; vượt ra ngoài những nhu cầu ái dục phàm nhân như luyến ái lứa đôi, hạnh phúc gia đình, vui buồn tục lụy. Có thể nói trong thế giới đi tu nói chung, người tu sĩ Phật giáo là biểu hiện sâu đậm nhất của sự hy sinh siêu tuyệt đó. Người tu sĩ theo đạo Phật tự nguyện từ bỏ mọi giá trị vật chất đời thường, từ bỏ mọi tên họ chức vị cá nhân, từ bỏ mọi lạc thú ăn uống hưởng thụ, từ bỏ mọi ước mơ sở hữu. Chỉ có một con đường chọn lựa duy nhấttu hành thanh tịnhtinh tấn để độ cho mình giác ngộ và độ cho người bớt khổ, thôi mê.

Tất cả những sự quan ngại về động cơ làm lu mờ hình ảnh thoát tục của người tu sĩ Phật giáo đều có một nỗi niềm thao thức chung: Đó là khả năng lôi cuốn của ái dục và sở đắc sẽ tàn phá lý tưởng tu hành cao sâu.  Người ta tự hỏi rằng, một đường tu rỡ ràngtrong sáng đến thế, tại sao lại để cho tiền bạc, vật chất là những phương tiện tầm thường – mà giới hạnh tu hành đã phát tâm vất bỏ trước khi xuất giaxâm phạm và khuấy đục. Nếu đem lý tưởng một đời để đổi lấy miếng phù dung giả tạm trước mắt thì thật là quá uổng!

blankChân tu là bậc xem tiền bạc vật chất dẫu tới muôn kho vạn hộc của hàng vua chúa cũng chỉ là phù vân. Miếng ăn, áo mặc, giấc ngủ đều phải đạm bạc mới phù hợp với phương vị Tỳ KheoKhất sĩ. Khất sĩ (Anagarika), Tỳ Kheo (Bhiksu), Sa Môn (Sramana) là những danh xưng khác nhau để chỉ chung cho phương vị của các đạo sĩ tu hành truyền thốngẤn Độ, gồm cả đạo Phật và khác đạo. Đó là những người có chí nguyện cao cả hướng về đời sống tâm linh. Khất sĩ chỉ cần khất thực có miếng ăn ngày một bữa vừa đủ nuôi thân xác để tu trì giác ngộ cho mình và hóa độ cho người. Trưởng lão Du Già Khất Sĩ Riponche Mahasam Tây Tạng đã từng khuyến cáo rằng: “Khất thực độ thế là biểu hiện hướng hành trì giải thoát của người Khất Sĩ. Vận động đóng góp tiền bạc để tích lũy giàu sang là đọa nghiệp của giới hành khất. Tính thánh và tính phàm chỉ khác nhau ở sự buông bỏ hay dính mắc. Người xuất gia mà không dứt khoát buông bỏ danh vị, chức quyền và tiền tài vật chất là đang tự biến Duyên Tu thành Nghiệp Tu. Kiếp này khoác áo thánh chúngmắc nợ phàm trần thì tới kiếp nào mới trả hết.”[2]

Buông bỏ để xuất gia tìm đạo là con đường quang minh không thối chuyểnđức Phậtchư tôn thạc đức đã đi qua trong suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ. Ngược lại, xuất gia tìm đạo mà không buông bỏ nên đã có những thời kỳ “xuất gia như ngưu mao, đắc đạo như thố giác” – Xuất gia như cát sông Hằng, khó tìm đắc đạo như trăng ban ngày.

Những thời đại đẹp nhất trong giáo sử đạo Phật là những thời điểm có vua quan là minh chủ, tăng ni là những bậc chân tu, đại chúnglương dân sống hài hòa đời thế tụctâm linh. Hỗ trợ nhau nhưng tuyệt đối không xen vào lĩnh vực nội bộ riêng biệt của nhau là vấn đề then chốt. Ngược lại, đạo pháp sẽ bị suy vi khi nếp sống tịnh hạnh của nhà tu bị thế lực ma vương của chức danh, quyền lợi và tiền tài quấy phá. Thời mạt Đường ở Trung Hoa, hai giới bần tăng và phú tăng đấu đá và khấu ó nhau vì quyền lợi phân chia chức vị và ruộng đất. Việc dựng chùa, lập phái dễ dãi như mở quán xá đầu đường. Dân gian và Đạo giáo bất mãn phản ứng. Vua Đường Võ Tôn xuống lệnh buộc hơn ba nghìn năm trăm Tăng Ni phải hoàn tục. Đạo Phật suy bại gần trăm năm vì miếng mồi vật chất.

Ở xứ ta, đạo Phật cực thịnh vào thời đại Lý Trần. Nhưng bắt đầu suy đồi vào giữa thế kỷ thứ 14. Suy đồi không có nghĩa là đếm bằng số lượng giảm thiểu con số chùa viện, tăng sĩ và Phật tử. Suy đồi ở đây có nghĩa là đánh mất vai trò lãnh đạo đời sống tâm linh của trí thức, văn hóa và chính trị. Có thể nói thời Pháp Loa (1284-1330) đạo Phật Việt Nam có con số chùa viện và tăng chúng, Phật tử cao nhất đương thời nhưng đấy lại là dấu hiệu khởi điểm của sự suy đồi. Ước tính có tới 30.000 tăng sĩ và 9.500 ngôi chùa với một dân số chỉ xấp xỉ bằng một phần hai mươi ngày nay. Nhưng số người theo đạo Phật do tín tâmthiện hạnh chân chính sút giảm vì những quyền lợi vật chất “thịnh quá hóa suy”. Thời bấy giờ, những chùa lớn, có chùa sở hữu Phật điền (ruộng cấp cho chùa) tới hàng trăm, hàng ngàn mẫu. Có Tam Bảo Nô làm tá điền phục dịch hệ thống canh tác sinh lợi cho chùa chiền. Những “công thần cửa Phật” ra đời canh giữ cửa thiền, biến một đạo Phật thoát tục phải bị nhuốm mùi tục lụy. Hiện trạng nầy đã dẫn tới sự tấn công của thế lực Nho Giáo. Tăng sĩ dấy binh nổi loạn như tu sĩ Thiên Nhiên Phạm Sư Ôn (1389). Quần chúng chống báng và xa rời Phật giáotranh chấp quyền lợi. Trong lúc đó, chính quyền xen vào nội bộ đạo Phật tới mức biến giáo quyền thành một bộ phận “mềm” của thế quyền. Tu sĩ đều phải mang Độ Điệpchứng thư làm giấy thông hành đi tu do chính quyền nắm giữ, cấp phát và khống chế. Tăng sĩ nhập thế dựa thế chính trị và tiền tài trở thành kiêu tăng ngã mạn. Tăng sĩ chân chính chọn hướng xuất thế ẩn dật hay vân du xa rời đại chúng. Phật tửtín tâm khó tìm ra được bậc tôn sư học đạo.

Thực trạng nầy làm cho sinh hoạt Phật giáo suy vi, xuống cấp tới mức năm 1395, vua Thuận Tông phải xuống chiếu thải bớt tăng sĩ dưới năm mươi tuổi. Biết bao bậc chân tu trẻ tuổi bị giới đàn anh và đồng môn đã bị tha hóa gây ra cảnh oan khiên.

Tình trạng thoái trào hay khởi sắc của một tôn giáo thường kéo dài ảnh hưởng trên cả một thế hệ. Những năm tiếp theo cuối đời Trần, hiện tượng xuống cấp càng gia tăng vì sự tu hành bị biến thành “nghề tôn giáo”. Tu sĩ bị đưa lên “đấu trường” sàng lọc vì cảnh vàng thau lẫn lộn. Năm 1429, tất cả các tăng sĩ Phật giáo đều phải đến trình diện để kiểm tra khảo thí. Ai thi đậu thì cho tiếp tục làm tăng sĩ, còn ai thi hỏng thì bắt buộc phải hoàn tục.

Mong sao, giáo sử Phật giáo Việt Nam hôm nay và mai kia không còn lập lại như tình trạng “thịnh quá hoá suy” của Phật giáo cuối đời Trần khi tình trạng tăng sĩ lạm dụng cửa thiền, coi việc tu hành như một nghề nghiệp dễ dãi chứ không còn là một lý tưởng cầu giác ngộ.

Lịch sử tôn giáo, dấu tích xã hội và trải nghiệm nhân sinh đã chứng minh rằng: Chiều sâu tâm linh và chiều sâu ham muốn không bao giờ song hành. Nghĩa là tham vọng tiền bạc càng dâng lên thì chiều cao tôn giáo càng xuống thấp.

Trong những ngày Hè đi thăm viếng các chùa viện, tôi có dịp tiếp cận với nhiều tôn giáo khác nhau. Trong thời đại mới, một thời buổi mà kinh tế là đề tài nóng bỏng của toàn xã hội, tôn giáo nào cũng đang bị cơn gió (hay có khi là cơn lốc) của vật chất, tiền bạc, sở hữu… thổi tới không ngừng. Đối với các tôn giáo gốc phương Tây, đa số được xây dựng trên nền tảng của “3 Có”: Có đức tin tuyệt đối vào linh thần giáo chủ; có con số người theo càng đông càng biểu hiện sự thành công; có cơ sở, kho lẫm vật chất càng to lớn càng thêm phần hưng thịnh. Trong lúc đó, đạo Phật chủ trương ngược lại với biểu tượng “3 Không”: Không có Tự tánh; Không có Thần quyền; Không có Sở đắc.

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, linh mục Nguyễn Văn Hàm, mục sư Phan Bá Tánh… cũng đã lên tiếng trong nhiều bài viết về hiện trạng dính mắc vào vấn đề tiền bạc của giới tu sĩ và con chiên làm mất phẩm cách của hàng giáo phẩm và niềm tin của tín đồ nói chung. Riêng linh mục Nguyễn Hữu Lễ trong bài viết về hiện tượng “Quyên Tiền Mục Vụ” đã nghiêm khắc lên tiếng về tình trạng một số linh mục đã lạm dụng quyên góp tiền bạc của tín đồtham vọng cá nhân hơn là nhu cầu đại chúng. Một nhân vật lãnh đạo tinh thần lão thành của Mỹ, mục sư Francis Heinz, mỏi mệt nhìn về nếp sống dính nặng vào vật chất thực dụng khi “Càng Bám Vào Vật Chất… Càng Dễ Điên Đầu – More Materialistic… More Hectic – trong khung cảnh nặng khuynh hướng vật chất phương Tây rằng: “Càng đặt nặng những giá trị vật chất vào tâm điểm cuộc sống của chúng ta thì sinh thú của chúng ta về cuộc đời càng vắng bóng”[3] Trong một khung cảnh “bát phong thọ nạn” vì tác động tiêu cực của tiền tài vật chất như thế, đạo Phật Việt Nam đang nếm trải cảnh “hoa sen giữa chợ”. Thầy Thích Thông Quang viết trong báo Tư Tưởng Tâm Linh: “Trên, giáo quyền không vững; dưới, giáo chỉ không tuân. Thượng bất chánh, hạ tác loạn nên sự lộng hành trong sinh hoạt tôn giáo đang trở thành pháp nạn. Đồng tiền chi phối tâm linh, cửa Phật rất dễ biến thành ‘tiệm Phật’ khi sinh hoạt cúng dường, gây quỹ của các chùa diễn ra nặng tính thị trường hơn là công quả. Thậm chí, có chùa biến thành một ban nghi lễ nhà quàn, hàng tuần chỉ lo cầu siêu, làm tuần, ma chay phục vụ cho các gia đình người chết mà quên dần con đường tìm về an lạcgiải thoátđại chúng đang cần. Lý tưởng làm có tiền, có địa vị đang làm mờ đi lý tưởng hạ thủ công phu tu hành thành Phật. Nếu có sự tu hành lạc hướng, lỗi tại giới tu hành xuất gia ít hơn là lỗi của quần chúng cúng dường chỉ quen nghĩ đến đạo…tiền mà không nghĩ đến đạo hậu.”[4]

Xét ra, trách nhiệm của giới Phật tửđiều kiện bố thí, cúng dường không phải là nhỏ. Gánh nặng góp phần xây dựng đạo pháp không phải là nhẹ. Những viên gạch quý nếu biết sử dụng cẩn trọng thì sẽ xây lên được kim từ, bảo tháp. Ngược lại, sẽ biến thành những viên đá cản đường.

Thật ra, so với những núi tiền kếch sù hàng trăm tỷ đô la của hoạt động tôn giáo phương Tây tung vào “thị trường” truyền đạocải đạo hằng năm trên toàn thế giới thì khối lượng tiền bạc cúng dườngsử dụng trong sinh hoạt của đạo Phật Việt Nam quá nhỏ bé. Đấy chỉ là chút tài lực nhỏ nhoi, khiêm tốn như bạc cắc bên cạnh bạc nghìn. Tuy tôn giáo hay hội đoàn nào cũng phải cần đến phương tiện tiền bạc để chi phí cho sinh hoạt. Nhưng vấn đề trọng tâm là phải tách biệt rạch ròi giữa tính thánh và tính phàm. Cần dọn dẹp mẫu người buôn bán, kinh doanh, làm tiền, quyên tiền, giữ tiền phàm trần ra khỏi phương vị cao quý của người tu sĩ thánh thiện.

blank“Máu Nhuộm Sân Chùa”

Xin thưa, đây không phải là đề tài tuồng cải lương võ hiệp kỳ tình cùng tên của soạn giả Yên Lang sáng tác trong nước năm 1991 mà các nghệ sĩ Minh Cảnh, Minh Vương, Lệ Thủy đã hợp diễn rất… mùi; hay là một kiểu “Máu nhuộm bãi Thượng Hải” trong phim bộ Hồng Kông. Đây là tiêu đề của những “i-meo” bằng tiếng Việt vừa xuất hiện và đang được tung hứng tưng bừng trên mạng lưới thông tin. Nội dung phát tán liên quan đến một trường hợp bi thảm vì tiền đã xảy ra tại chùa Diệu Pháp, thành phố Tampa thuộc tiểu bang Florida, nước Mỹ. Theo nguồn tin nầy thì một vị Tăng sĩ và một Sư cô người Việt đã “âm mưu giết chết một Phật tử để đoạt số tiền 38.000 đô la Mỹ”. Đọc tới đây, xin quý vị hãy khoan đánh trống chầu khen thưởng hay phản đối. Lương tâmcông pháp của thế giới văn minh không chấp nhận lối kết tội hay xử án kiểu “quân xử thần tử…” tùy hứng và vọng động nào cả.

Để cho câu chuyện có đầu, có đuôi – có tiền có hậu – một chút, xin kính mời quý vị phát tâm nhắp chuột (click the mouse) vào nguồn xuất phát bản tin theo địa chỉ sau đây:

http://rackspace.tbo.com/video/2011/feb/08/buddist-temple-is-the-target-for-a-civil-99371/c_1/

Qua nội dung bản tin điều tra phóng sự của cơ quan truyền thông 8-HD ở Tampa, Florida phát đi ngày 8 tháng 2 năm 2011, kết hợp với nhiều nguồn tin khác cùng vụ việc của cộng đồng châu Á, người ta được biết tin một nữ Phật tử người Việt cao niên, độc thân, xin vào tu trong chùa Diệu Pháp. Vị Phật tử nầy và một sư cô còn trẻ đang tu ở chùa cùng đứng tên chung trong một trương mục Ngân Hàng. Mấy hôm trước ngày chết, vị Phật tử rút tiền trong ngân hàng hai lần, mỗi lần 4 nghìn đô la để làm gì không ai rõ. Sau đó, vị Phật tử nầy bị ngất xỉu và qua đời đột ngột tại chùa. Sư cô đứng tên chung trương mục ngân hàng rút ra 30.000 đô la. Ngoàì ra, còn có một Tăng sĩ trong chùa, người có làm giấy hôn thú với Sư cô nầy vào năm 2008 (nguyên nhân sâu xa là vì tình, vì tiền hay vì mục đích tìm chỗ dựa pháp lý để được định cư ở Mỹ thì chưa có sự xác minh.)

blankGia đình người Phật tử mới chết mướn luật sư kiện chùa Diệu Phápnghi ngờ rằng vị Tăng Sĩ và Sư Cô cùng âm mưu giết vị Phật tử cao niên nầy để đoạt 38,000 đô la. Nhà chùa cũng mướn luật sư để phản bác lời kết tội. Luật sư nhà chùa tuyên bố: “Đây là một câu chuyện tiểu thuyết tưởng tượng.” Cơ quan điều tra kết luận: “Không có bằng chứng nào hỗ trợ cho sự nghi ngờ buộc tội của gia đình người người mới chết cả. Việc người đã chết rút tiền ngân hàng trước đó và việc Sư cô rút tiền sau nầy là hợp pháp vì cả hai đều là đồng chủ nhân đứng tên trong trương mục ngân hàng.”

Câu chuyện “máu nhuộm sân chùa” nầy cho dẫu là sự thật bị che dấu, là chuyện tiếu lâm trà dư tửu hậu, là kết quả suy diễn tiểu thuyết tưởng tượng hay là gì… gì đi nữa thì điểm nổi bật nhất vẫn là tình trạng Bất Tịnh của chốn thiền môn trước cái nhìn đầy hoài nghitiêu cực của đại chúng!

Vấn đề then chốt đặt ra, rằng: Nếu sự vụ “máu nhuộm sân chùa” nầy chỉ là chuyện ba xàm, chụp mũ vì xuất phát từ một hay những âm mưu bất chính nào đó thì cần dựa trên những quyền lực nào của đạo Phật Việt Nam để biện minh cho nạn nhân là những vị tu hành chân chính? Hoặc ngược lại, đây là chuyện thật xảy ra thì biết dựa vào thẩm quyền nào của đạo Phật Việt Nam để xử đoán sự vi phạm nghiêm trọng của những thành viên biến chất?

Nhu Cầu và Thực Tế

Xưa nay giáo quyền và thế quyền vẫn là hai thế lực song song. Khi mạnh, khi yếu có lúc khác nhau nhưng vẫn luôn luôn có sự tương tác qua lại trong dòng lịch sử nhân loại. Đạo Phật đã từng “nhập thế” với đạo Bà La Môn, Kỳ Na GiáoẤn Độ; với đạo Nho thời Hán, Đường, Tống, Nguyên ở Trung Quốc, với Thần Đạo (Shinto) ở Nhật Bản; với khuynh hướng Tân La, Tùng Nhạc ở Triều Tiên. Riêng ở Việt Nam, đạo Phật đã từng là nếp sống tâm linh của vua quan và đại chúng trong thời đại Lý Trần. Nhưng sự biến tướng gần như khôngtrường hợp ngoại lệ, rằng là, thời nào tu sĩđại chúng Phật tử “bám Có, bỏ Không” trong sinh hoạt tu học và hoằng dương đạo pháp thì đó là thời kỳ dẫn đến sự suy tàn trong từng giai đoạn tạm thời của đạo Phật. Những chùa viện lớn nhất, những tôn tượng to nhất, những Tăng nhân quyền lực nhất sẽ trở thành đối tượng bị tấn công, phá hủy hay hạ bệ bởi những thế lực tôn giáo hoặc chính trị đối kháng tàn hại nhất.

Ngày nay, vấn đề then chốt của đạo Phật không phải là những phàm tướng biến ảo trước mắt – mà thời nào cũng có và tổ chức tôn giáo nào cũng có – như câu chuyện “máu nhuộm sân chùa” bi hài chưa rõ trên đây.

Đạo Phật là một tôn giáo nên cần có giáo quyền, giáo phẩm và giáo dân để hành đạo.

Nhu cầu trước mắt của đạo Phật Việt Nam hiện nay là một tổ chức tôn giáo được sự hướng đạo (nếu không muốn nói là lãnh đạo) của một Hội Đồng Điều Hành Chung Nhất (nếu không muốn nói là Thống Nhất) của chư Tôn thạc đức, cư sĩcông hạnh, thiện tri thứcPhật tử vững tín tâm.

Thực tế hiện tại của Phật giáo Việt Nam Hải Ngoại là một quá trình tu học tự phát. Tu sĩPhật tử chia thành từng nhóm phái hay khu vực với danh nghĩa riêng để sắm chùa, dựng tượng, tu học theo phong cách độc lập gần như mô thức hoạt động của các thương hiệu kinh tế và thương mãi đời thường.

Sau hơn 30 năm Phật giáo Việt Nam có mặt ở nước ngoài, người Phật tử càng ngày càng thắc mắc: 

- Tại sao giới Tăng ni tôn trưởng thay vì thuyết giáo phá chấp thì thực hành thân giáo phá chấp để ngồi lại với nhau hầu mong hóa giải từng bước tình trạng phân hóa, xóa dần biên giới phân tranh “Giáo Hội” như pháp nạn hiện tiền?

- Nếu có những vụ việc không rõ ràng như trường hợp của Tăng sĩ và Sư cô chùa Diệu Pháp trên đây thì giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia biết dựa vào đâu để làm sáng tỏ, xử trí phân minh trên căn bản giới luật và pháp luật tại nơi cư trú?

- Không có một hình thức giáo quyền thống nhất, Tăng chúngPhật tử hậu sinh làm sao quyết đoán chín chắn và rạch ròi những vấn đề Phật sự quan trọng, nhằm bảo vệ chính bản thân người Phật tửbảo vệ thanh danh cho đạo Phật giữa một thế giới đa nguyên, đa chủng, đa dạng toàn cầu nầy?

- Tiền bạc đang làm lung lạc nếp thanh tịnh truyền thống của Tăng ni, Phật tử và chùa chiền, tự viện. Tương lai của đạo Phật Việt Nam ở Hải ngoại sẽ về đâu nếu không có một cuộc chấn hưng kịp thời và rộng khắp?

Trong câu hỏi đã tiềm ẩn ý trả lời. Trả lời theo lý thuyết không khó. Sự hy sinh và hành động cụ thể mới khó.

Xin cúi đầu đảnh lễ chư Tôn Đức Tăng Ni với một lời cầu nguyện: Sự phân hóa nội bộ đang biến chính những người Phật tử thành “Ngoại Đạo” vì khi không có nơi nương tựa bên trong thì phải nương tựa bên ngoài. Về mặt lý thuyết, đạo Phật có đủ tất cả các phương thức đối trị để hóa giải xung đột trong mọi hoàn cảnh. Nhưng quan trọng bậc nhất vẫn là lòng Từ Bi. Yếu tính của lòng Từ Bi là “thương được những điều không thể thương được”. Nghĩa là thương được ngay cả kẻ thù. Chư Tôn Đức Tăng Ni chưa và sẽ không bao giờ là kẻ thù của nhau cả thì tại sao vẫn còn phân hóa, chưa thương được nhau để cùng ngồi lại với nhau. Ngưỡng mong lòng Từ Bi của người Phật tử sẽ thể hiện bằng hành động cụ thể trong chính nội bộ của mình.

Khi tu không cầu chứng mà độ cũng chẳng linh thì gian nhân (cũng đến từ nhân gian) đã vô tình hay cố ý xem chùa như chợ. Hoa sen bị đem ra giữa chợ đời trao đổi. Câu hát dân gian buồn buồn, ngỡ là vô tâm mà lại sâu nặng như vàng chìm đáy biển:

Giữa bùn hoa sen có,
Giữa chợ hoa sen không.
Gánh vàng mà lội qua sông,
Vàng rơi không tiếc, tiếc công gánh vàng.

Cuối cùng, của cũng sẽ bỏ người mà đi; chỉ có công hạnh là còn theo người từ kiếp nầy sang kiếp khác. Sen ơi! Về lại đi thôi.

Napa, Trung Thu 2011

Trần Kiêm Đoàn



[1] Kính mời xem và tùy nghi sử dụng Nhật Ký Hành Hương 1,2,3,4 ở địa chỉ: www.Trankiemdoan.net

[2] Riponche Mahasam. Dharma Discussion. Langston NY,NY; 2009.

[3] “The more materialistic values are at the center of our lives, the more our quality of life is disminished.”

[4] Thích Thông Quang. Tư Tưởng Tâm Linh. California. Tháng 10-2010. Tr. 108 -109


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14852)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17777)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18208)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14977)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13174)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21133)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32556)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15296)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12341)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27481)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12133)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34917)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17730)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11804)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12641)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14564)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32451)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19454)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12967)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14083)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15312)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14136)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14120)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11951)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53146)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11651)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13917)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13809)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20684)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14309)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13430)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13607)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34155)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16208)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14070)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14196)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13550)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15892)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13501)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27728)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13892)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24939)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13943)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31312)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13859)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15557)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14957)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant