Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14

08 Tháng Mười 201100:00(Xem: 7177)
14

KRISHNAMURTI
CUỘC ĐỜI TRƯỚC MẶT
Lời dịch: Ông Không

PHẦN MỘT

XIV

C

ó những nhân tố khác nhau liên quan đến sự không hợp nhất của con người, và nhiều cách khác nhau trong đó những con người bị tách rời. Hợp nhất là mang vào cùng nhau, làm cho tổng thể. Nếu bạn được hợp nhất, những suy nghĩ, những cảm thấy và những hành động của bạn hoàn toàn là một, chuyển động trong một phương hướng; chúng không mâu thuẫn với nhau. Bạn là một con người tổng thể, không có xung đột. Đó là điều gì được hàm ý trong từ ngữ hợp nhất. Tách rời là đối nghịch của điều đó; nó là tan ra từng mảnh, rời ra từng mảnh, rải rác cái mà đã được kết hợp cùng nhau. Và có nhiều cách mà con người tan rã, rời ra từng mảnh, hủy diệt chính họ. Tôi nghĩ một trong những nhân tố chính là cảm thấy của ganh tỵ, mà quá tinh tế đến độ nó được nhận biết, dưới những danh nghĩa khác nhau, như là xứng đáng, lợi ích, một yếu tố đáng ca ngợi trong sự nỗ lực của con người.

 Bạn biết ganh tỵ là gì? Nó bắt đầu khi bạn còn rất nhỏ – bạn cảm thấy ganh tỵ với một người bạn mà trông đẹp đẽ hơn bạn, mà có những vật dụng tốt hơn hay một vị trí tốt hơn. Bạn ganh tỵ nếu một cô gái hay cậu trai vượt qua bạn trong lớp học, có cha mẹ giàu có hơn, hay thuộc về một gia đình danh giá hơn. Vì vậy, ganh tỵ và ghen tuông bắt đầu tại một cái tuổi rất mỏng manh, và dần dần nó mang hình dạng của sự ganh đua. Bạn muốn làm việc gì đó để nổi bật mình – có những điểm số cao hơn, là một vận động viên giỏi hơn người nào đó; bạn muốn trội hơn, sáng chói hơn những người khác.

 Khi bạn lớn lên, ganh tỵ mỗi lúc một mạnh mẽ thêm. Những người nghèo khổ ganh tỵ với những người giàu có, và những người giàu có ganh tỵ với những người giàu có hơn. Có sự ganh tỵ của những người mà đã có trải nghiệm và muốn nhiều trải nghiệm hơn, và sự ganh tỵ của người viết văn mà muốn viết giỏi hơn. Chính ham muốn để giỏi hơn này, để trở thành cái gì đó xứng đáng, để có nhiều hơn cái này hay nhiều hơn cái kia, là sự tham lợi, qui trình của thâu lượm, kiềm chế. Nếu bạn quan sát bạn sẽ nhận thấy rằng bản năng trong mỗi người chúng ta là thâu lượm, có nhiều hơn và nhiều hơn những bộ quần áo, những ngôi nhà, những tài sản. Nếu nó không phải điều đó, vậy thì chúng ta muốn nhiều trải nghiệm hơn, nhiều hiểu biết hơn; chúng ta muốn cảm thấy rằng chúng ta biết nhiều hơn bất kỳ người nào khác, rằng chúng ta đã đọc nhiều hơn một người khác. Chúng ta muốn thân cận với những người có chức vụ cao trong chính phủ nhiều hơn những người khác, hay để cảm thấy rằng thuộc tinh thần, phía bên trong, chúng ta thánh thiện nhiều hơn những người khác. Chúng ta muốn ý thức rằng chúng ta khiêm tốn, rằng chúng tađạo đức, rằng chúng ta có thể giải thích và những người khác không thể.

 Vì vậy, chúng ta càng kiếm được nhiều bao nhiêu, sự tách rời càng to tát bấy nhiêu. Chúng ta càng kiếm được nhiều tài sản hơn, nhiều danh tiếng hơn, nhiều trải nghiệm hơn, nhiều hiểu biết hơn bao nhiêu, chúng ta càng thoái hóa mau lẹ hơn bấy nhiêu. Từ ham muốn để là hay kiếm được nhiều hơn, sinh ra căn bệnh chung của ganh tỵ, ghen tuông. Bạn đã không quan sát điều này trong chính bạn, và trong những người lớn tuổi quanh bạn, hay sao? Bạn đã không nhận thấy làm thế nào một giáo viên muốn là một giáo sư, và người giáo sư muốn là trưởng khoa, hay sao? Hay làm thế nào người cha hay người mẹ của bạn muốn nhiều tài sản hơn, một cái tên quan trọng hơn?

 Trong đấu tranh để kiếm được chúng ta trở thành tàn nhẫn. Trong tham lợi chúng ta không có tình yêu. Cách sống tham lợi là một trận chiến vô tận với người hàng xóm của bạn, với xã hội, trong đó có sợ hãi liên tục; nhưng chúng ta bào chữa tất cả điều này, và chúng ta chấp nhận ganh tỵ như điều không thể tránh khỏi. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải tham lợi – mặc dù chúng ta gọi nó bằng một từ ngữ nghe có vẻ hoa mĩ hơn. Chúng ta gọi nó là tiến hóa, tăng trưởng, phát triển, tiến bộ, và chúng ta nói nó là điều cần thiết.

 Bạn thấy, hầu hết chúng ta đều không nhận biết được tất cả điều này; chúng ta không nhận biết được rằng chúng ta tham lam, tham lợi, rằng những quả tim của chúng ta đang bị gặm nhấm bởi ganh tỵ, rằng những cái trí của chúng ta đang thoái hóa. Và khi trong khoảnh khắc chúng ta có trở nên nhận biết được điều này, chúng ta bào chữa nó, hay chỉ nói rằng đó là sai trái; hay chúng ta cố gắng chạy trốn nó trong những hình thức khác nhau.

 Ganh tỵ là một việc rất khó khăn để phơi bày hay khám phá trong chính người ta, bởi vì cái trí là trung tâm của ganh tỵ. Chính cái trí là ganh tỵ. Chính cấu trúc của cái trí được xây dựng trên tham lợiganh tỵ. Nếu bạn quan sát những suy nghĩ riêng của bạn, nhìn ngắm cách bạn suy nghĩ, bạn sẽ thấy rằng thông thường chúng ta gọi suy nghĩ là một tiến trình của so sánh: ‘Tôi có thể giải thích hay hơn, tôi có hiểu biết nhiều hơn, thông minh nhiều hơn’. Suy nghĩ dựa vào ‘nhiều hơn’ là công việc của cái trí tham lợi; đó là cách tồn tại của nó. Nếu bạn không suy nghĩ dựa vào ‘nhiều hơn’, bạn sẽ phát hiện rất khó khăn khi suy nghĩ. Sự theo đuổi của ‘nhiều hơn’ là chuyển động so sánh của suy nghĩ, mà tạo ra thời gianthời gian trong đó để trở thành, để là người nào đó; nó là qui trình của ganh tỵ, của kiếm được. Bởi vì suy nghĩ một cách so sánh, cái trí nói, ‘Tôi là điều này, và ngày nào đó tôi sẽ là điều kia’; ‘Tôi xấu xí, nhưng tôi sẽ đẹp đẽ hơn trong tương lai’. Vì vậy tham lợi, ganh tỵ, suy nghĩ so sánh tạo ra bất mãn, bất an; và phản ứng của chúng ta đối với điều này là nói rằng chúng ta phải cam chịu với số phận của chúng ta, chúng ta phải mãn nguyện với điều gì chúng ta có. Đó là điều gì những người tại đỉnh của cái thang nói. Những tôn giáo toàn cầu rao giảng sự mãn nguyện.

 Mãn nguyện thực sự không là một phản ứng, nó không là sự đối nghịch của tham lợi; nó là cái gì đó còn rộng lớn và quan trọng hơn nhiều. Con ngườimãn nguyện của họ là sự đối nghịch của tham lợi, của ganh tỵ, chỉ giống như một cây rau; phía bên trong anh ấy là một thực thể chết rồi, giống như hầu hết mọi nguời đều là những thực thể chết rồi. Hầu hết mọi người đều rất thụ động bởi vì phía bên trong họ chết rồi; và phía bên trong họ chết rồi bởi vì họ đã nuôi dưỡng sự đối nghịch – sự đối nghịch của mọi thứ mà họ thực sự là. Bởi vì ganh tỵ, họ nói, ‘Tôi không được ganh tỵ’. Bạn có lẽ từ bỏ sự đấu tranh liên tục của ganh tỵ bằng cách khoác vào một cái khố và nói bạn sẽ không tham lợi; nhưng chính ham muốn này để tốt lành, để không tham lợi, mà là sự theo đuổi của đối nghịch, vẫn còn trong lãnh vực của thời gian; nó vẫn còn là bộ phận thuộc cảm thấy của ganh tỵ, bởi vì bạn vẫn còn muốn là cái gì đó. Sự mãn nguyện thực sự không là tất cả điều đó; nó là cái gì đó sáng tạothăm thẳm hơn nhiều. Không có sự mãn nguyện khi bạn chọn lựa để sống mãn nguyện; sự mãn nguyện không hiện diện theo cách đó. Sự mãn nguyện hiện diện khi bạn hiểu rõ bạn thực sự là gì và không theo đuổi bạn nên là gì.

 Bạn nghĩ bạn sẽ mãn nguyện khi bạn kiếm được tất cả mọi thứ bạn mơ ước. Bạn sẽ muốn là một thống đốc, hay một vị thánh vĩ đại, và bạn nghĩ bạn sẽ kiếm được sự mãn nguyện bằng cách đạt được mục đích đó. Nói cách khác, qua qui trình của sự ganh tỵ bạn hy vọng đến được sự mãn nguyện. Qua một phương tiện sai lầm bạn mong chờ đạt được một kết quả đúng đắn. Sự mãn nguyện không là thỏa mãn. Mãn nguyện là cái gì đó rất giàu sức sống; nó là một trạng thái của sáng tạo trong đó có hiểu rõ cái gì thực sự . Nếu bạn bắt đầu hiểu rõ cái gì bạn thực sự là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, từ ngày sang ngày, bạn sẽ phát hiện rằng từ sự hiểu rõ này hiện diện một cảm thấy lạ thường của mênh mang, của hiểu rõ vô giới hạn. Đó là, nếu bạn tham lam, điều gì quan trọng là hiểu rõ tham lam của bạn và không cố gắng trở thành không-tham lam; bởi vì chính ham muốn để trở thành không-tham lam vẫn còn là một hình thức của tham lam.

 Cấu trúc tôn giáo của chúng ta, những cách suy nghĩ của chúng ta, sống xã hội của chúng ta, mọi thứ chúng ta thực hiện đều được đặt nền tảng trên sự tham lợi, trên một tầm nhìn ganh tỵ, và suốt hàng thế kỷ chúng ta đã được nuôi dưỡng trong cách đó. Chúng ta bị quy định quá nặng nề vào điều đó đến độ chúng ta không thể suy nghĩ tách khỏi ‘những tốt hơn’, ‘những nhiều hơn’; vì vậy chúng ta đã khiến cho ganh tỵ thành ham muốn. Chúng ta không gọi nó là ganh tỵ, chúng ta gọi nó bằng từ ngữ hoa mĩ nào đó; nhưng nếu bạn thâm nhập đằng sau từ ngữ bạn sẽ thấy rằng sự ham muốn lạ lùng này cho ‘nhiều hơn’ là ích kỷ, tự khép kín. Nó đang giới hạn sự suy nghĩ.

 Cái trí mà bị giới hạn bởi ganh tỵ, bởi ‘cái tôi’, bởi ham muốn kiếm được những sự vật hay đạo đức, không bao giờ có thể là một cái trí tôn giáo thực sự. Cái trí tôn giáo thực sự không là một cái trí so sánh, cái trí tôn giáo thấy và hiểu rõ toàn ý nghĩa của cái gì. Đó là lý do tại sao rất quan trọng phải hiểu rõ về chính bạn, mà là nhận biết được những làm việc của cái trí riêng của bạn: những động cơ, những dự tính, những khao khát, những ham muốn, áp lực liên tục của sự theo đuổi mà tạo ra ganh tỵ, tham lợiso sánh. Khi tất cả điều này đã kết thúc qua sự hiểu rõ về cái gì , chỉ lúc đó bạn sẽ biết tôn giáo thực sự, Thượng đế là gì.

 

Người hỏi: Sự thậttương đối hay tuyệt đối?

Krishnamurti: Trước hết, qua những từ ngữ chúng ta hãy hiểu rõ ý nghĩa của câu hỏi. Chúng ta muốn cái gì đó tuyệt đối, đúng chứ? Sự khao khát của con người là hướng về cái gì đó vĩnh cửu, cố định, bất động, thường hằng, cái gì đó mà không phân rã, mà không có chết – một ý tưởng, một cảm thấy, một tình trạng vĩnh viễn, để cho cái trí có thể bám vào. Chúng ta phải hiểu rõ sự khao khát này trước khi chúng ta có thể hiểu rõ câu hỏi và trả lời nó một cách đúng đắn.

 Cái trí con người muốn sự vĩnh cửu trong mọi thứ – trong liên hệ, trong tài sản, trong đạo đức. Nó muốn cái gì đó mà không thể bị hủy diệt. Đó là lý do tại sao chúng ta nói Thượng đếvĩnh cửu, hay sự thậttuyệt đối.

 Nhưng sự thật là gì? Liệu sự thật là cái gì đó huyền bí, lạ thường, cái gì đó xa xôi, không thể tưởng tượng được, trừu tượng? Hay sự thật là cái gì đó bạn phát giác từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, từ ngày sang ngày? Nếu nó có thể được tích lũy, được thâu lượm qua trải nghiệm, vậy thì nó không là sự thật; bởi vì đằng sau sự thâu lượm này ẩn nấp cùng tinh thần của sự tham lợi. Nếu nó là cái gì đó xa xôi mà có thể được tìm ra chỉ qua một hệ thống của thiền định, hay qua sự thực hành của từ bỏhy sinh, lại nữa nó không là sự thật, bởi vì đó cũng là một qui trình của sự tham lợi.

 Sự thật phải được phát giác và được hiểu rõ qua mọi hành động, trong mọi suy nghĩ, trong mọi cảm thấy, dù nhỏ nhoi hay thoáng chốc; nó phải được nhìn ngắm tại mỗi khoảnh khắc của mỗi ngày; nó phải được lắng nghe trong điều gì người chồng hay người vợ nói, trong điều gì người làm vườn nói, trong điều gì những người bạn của bạn nói, và trong qui trình của suy nghĩ riêng của bạn. Suy nghĩ của bạn có lẽ giả dối, nó có lẽ bị quy định, bị giới hạn; và phát giác rằng suy nghĩ của bạn bị quy định, bị giới hạn, là sự thật. Chính sự phát giác đó khiến cho cái trí của bạn được tự do khỏi sự giới hạn. Nếu bạn phát giác rằng bạn tham lam – nếu bạn phát giác nó, và không phải chỉ được dạy bảo bởi người nào đó – sự phát giác đó là sự thật, và sự thật đó có hành động riêng của nó vào tham lam của bạn.

 Sự thật không là cái gì đó mà bạn có thể thâu lượm, tích lũy, lưu trữ và sau đó dựa vào nó như một hướng dẫn. Đó chỉ là một hình thức khác của sự sở hữu. Và rất khó khăn cho cái trí để không thâu lượm, không lưu trữ. Khi bạn nhận ra ý nghĩa của điều này, bạn sẽ tìm được sự thật là một sự việc lạ thường làm sao. Sự thật là không thời gian – nhưng khoảnh khắc bạn nắm bắt nó – như khi bạn nói, ‘Tôi đã tìm được sự thật, nó là cái của tôi’ – nó không còn là sự thật nữa.

 Vì vậy, liệu sự thật là ‘tuyệt đối’ hay không thời gian phụ thuộc vào cái trí. Khi cái trí nói, ‘Tôi muốn cái tuyệt đối, cái gì đó mà không bao giờ phân rã, mà không biết chết’, điều gì nó thực sự muốn là cái gì đó vĩnh cửu để bám vào; thế là nó sáng chế cái vĩnh cửu. Nhưng trong một cái trí mà nhận biết được mọi thứ đang xảy ra phía bên ngoài và phía bên trong chính nó, và thấy sự thật của nó – một cái trí như thế là không thời gian; và chỉ một cái trí như thế mới có thể biết cái mà vượt khỏi danh tánh, vượt khỏi cái vĩnh cửu và cái không vĩnh cửu.

 

Người hỏi: Sự nhận biết phía bên ngoài là gì?

Krishnamurti: Bạn không nhận biết rằng bạn đang ngồi trong hội trường, hay sao? Bạn không nhận biết những cái cây, ánh sáng mặt trời, hay sao? Bạn không nhận biết rằng con quạ đang kêu, con chó đang sủa, hay sao? Bạn không thấy màu sắc của những bông hoa, chuyển động của những chiếc lá, những con người đang đi ngang qua, hay sao? Đó là sự nhận biết phía bên ngoài? Khi bạn thấy mặt trời hoàng hôn, những vì sao vào ban đêm, ánh trăng trên dòng nước, tất cả điều nó là sự nhận biết phía bên ngoài, đúng chứ? Và bởi vì bạn nhận biết được phía bên ngoài, thế là phía bên trong bạn cũng nhận biết được những suy nghĩ và những cảm thấy của bạn, những động cơ và những thôi thúc của bạn, những thành kiến, những ganh tỵ, những tham lam và những hãnh diện của bạn. Nếu bạn thực sự nhận biết được phía bên ngoài, sự nhận biết phía bên trong cũng bắt đầu thức dậy, và bạn trở nên mỗi lúc một nhận biết được phản ứng của bạn đối với điều gì những con người nói, điều gì bạn đọc, và vân vân. Sự phản ứng hay đáp trả phía bên ngoài trong sự liên hệ của bạn với những người khác là kết quả của một trạng thái phía bên trong của mong muốn, của hy vọng, của lo âu, sợ hãi. Sự nhận biết phía bên ngoài và phía bên trong này là một tiến hành hợp nhất mà sáng tạo một hòa hợp tổng thể của sự hiểu rõ con người.

 

Người hỏi: Hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu là gì?

Krishnamurti: Khi bạn hoàn toàn khỏe mạnh, bạn không nhận biết được thân thể của bạn, đúng chứ? Chỉ khi nào có bệnh tật, bứt rứt, đau đớn, bạn mới trở nên nhận biết được nó. Khi bạn được tự do hoàn toàn để suy nghĩ, mà không có kháng cự, không có sự nhận biết được suy nghĩ. Chỉ khi nào có sự xung đột, một ngăn cản, một giới hạn, bạn mới bắt đầu nhận biết được một người suy nghĩ. Tương tự, liệu hạnh phúc là cái gì đó mà bạn nhận biết được? Trong khoảnh khắc của hân hoan, liệu bạn nhận biết được rằng bạn hân hoan? Chỉ khi nào bạn không hạnh phúc thì bạn mới muốn hạnh phúc; và sau đó câu hỏi này nảy sinh, ‘Hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu là gì?’

 Bạn thấy cái trí lừa bịp vào nó như thế nào. Bởi vì bạn không hạnh phúc, đau khổ, trong những hoàn cảnh khốn cùng, và vân vân. Bạn muốn cái gì đó bất diệt, một hạnh phúc vĩnh cửu. Và liệu có một việc như thế? Thay vì hỏi về hạnh phúc vĩnh cửu, hãy tìm ra làm thế nào được tự do khỏi những bệnh tật mà đang gặm nhấm và đang gây ra đau khổ, cả thân thể lẫn tâm lý. Khi bạn được tự do, không có vấn đề, bạn không hỏi liệu có hạnh phúc vĩnh cửu hay hạnh phúc đó là gì. Chỉ một người dốt nát, lười biếng mà, đang ở trong ngục tù, mới muốn biết tự do là gì; và những người dốt nát, lười biếng sẽ nói cho anh ấy. Đối với người trong ngục tù, tự do chỉ là sự phỏng đoán. Nhưng nếu anh ấy thoát khỏi ngục tù đó, anh ấy không phỏng đoán về tự do: nó ở đó.

 Vậy là, liệu không quan trọng, thay vì hỏi hạnh phúc là gì, tìm ra lý do tại sao chúng ta không hạnh phúc, hay sao? Tại sao cái trí bị què quặt? Tại sao những suy nghĩ của chúng ta bị giới hạn, nhỏ nhen, tầm thường? Nếu chúng ta có thể hiểu rõ sự giới hạn của suy nghĩ, thấy sự thật của nó, trong khám phá đó về sự thậtsự giải thoát.

 

Người hỏi: Tại sao con người muốn mọi thứ?

Krishnamurti: Bạn không muốn lương thực khi bạn đói, hay sao? Bạn không muốn quần áo và một ngôi nhà cho bạn ở, hay sao? Đây là những mong muốn bình thường, đúng chứ? Tự nhiên, những con người lành mạnh công nhận rằng họ cần những thứ nào đó. Chỉ con người bệnh tật hay mất cân bằng mới nói, ‘Tôi không cần lương thực’. Chỉ một cái trí bị biến dạng mới phải hoặc có nhiều ngôi nhà, hoặc không có ngôi nhà nào để sống trong nó.

 Thân thể của bạn bị đói bởi vì bạn đang sử dụng năng lượng, vì vậy nó cần nhiều năng lượng thêm; đó là bình thường. Nhưng nếu bạn nói, ‘Tôi phải có thức ăn ngon nhất, tôi phải có thức ăn mà cái lưỡi của tôi thích’, vậy thì sự biến dạng bắt đầu. Tất cả chúng ta – không chỉ những người giàu có nhưng mọi người trong thế giới – phải có lương thực, quần áo và chỗ ở; nhưng nếu những cần thiết thuộc vật chất này bị giới hạn, bị kiểm soát và bị khiến cho tiện dụng chỉ cho một ít người, vậy thì có sự biến dạng; một qui trình không tự nhiên đang vận hành. Nếu bạn nói, ‘Tôi phải tích lũy, tôi phải có mọi thứ cho tôi’, bạn đang tước đoạt của những người khác những thứ cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của họ.

 Bạn thấy, vấn đề không đơn giản, bởi vì chúng ta thèm muốn những thứ khác ngoài những thứ cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của chúng ta. Tôi có lẽ thỏa mãn cùng chút ít lương thực, vài bộ quần áo, và một căn phòng nhỏ để sống trong nó; nhưng tôi lại muốn cái gì khác nữa. Tôi muốn là một người nổi tiếng, tôi muốn địa vị, quyền hành, thanh danh, tôi muốn gần Thượng đế nhất, tôi muốn những người bạn của tôi nghĩ tốt về tôi, và vân vân. Những thèm khát phía bên trong này biến dạng những quan tâm phía bên ngoài của mọi người. Vấn đề có một chút khó khăn bởi vì sự thèm khát phía bên trong để giàu có nhất hay quyền hành nhất, phụ thuộc cho sự thành tựu của nó vào sự sở hữu của những sự vật, gồm cả lương thực, quần áo, và chỗ ở. Tôi dựa vào những thứ này với mục đích để giàu có phía bên trong; nhưng chừng nào tôi còn ở trong trạng thái của phụ thuộc này, tôi không thể được giàu có phía bên trong, mà là để tuyệt đối đơn giản phía bên trong.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14851)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17777)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18207)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13171)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21132)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32552)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15296)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12340)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27477)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12130)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34914)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17728)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11803)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12640)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14563)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32450)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19452)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14081)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15310)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14135)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11951)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53142)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11651)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13916)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13809)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20681)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14309)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13606)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34146)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16207)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14069)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14196)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13549)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15892)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13500)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27723)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13891)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24933)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13942)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31310)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13858)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15556)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14956)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant