Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Phật giáo Trung quốc

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12057)
07. Phật giáo Trung quốc

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 1: ĐẠI CƯƠNG

Phật giáo Trung quốc

I.- Dẫn nhập: Một ngàn năm Trung Quốc đô hộ Việt Nam, chúng ta chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc. Phật Giáo truyền vào Việt Nam từ Ấn Ðộ và Trung Quốc, về sau này chỉ còn có Trung Quốc mà thôi, vả lại Phật Giáo Trung Quốc là Ðại Thừa Phật Giáo, do đó chúng ta cần phải biết về Phật Giáo Trung Quốc.

II.- Thời kỳ du nhập: Có nhiều thuyết nói về thời kỳ khởi thuỷ, Phật Giáo du nhập vào Trung Quốc, nhưng có thuyết nói rằng Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (năm 67 TL), vua Minh Ðế nhà Hậu Hán, nằm mộng thấy người vàng, có hào quang rực rỡ từ phương Tây tới, làm sáng tỏ cả cung điện, vua đoán biết có Phật Giáo ở phương Tây, liền sai Thái Hâm, Vương Tuân, Tần Cảnh và tuỳ tùng cả thảy 18 người sang Tây vực thỉnh tượng và kinh sách, nửa đường gặp hai nhà sư Ấn là Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan đang tải kinh, tượng bằng ngựa trắng đi về phía Ðông, liền mời hai vị ấy tới Trung Hoa, Vua Minh Ðế rất mừng, cho cất nhà quán để thờ Phật, ở và dịch kinh, nơi đó đặt tên là Bạch Mã Tự. Hai vị nầy đã dịch Tứ Thập Nhị Chương, hiện nay vẫn còn lưu truyền, đây là quyển kinh dịch chữ Phạn sang chữ Trung Hoa đầu tiên.

Sở Vương Anh là em của vua Minh Ðế sùng tín đạo Phật, do đó nhiều người tin theo. Rồi những vị sư Ấn Ðộ khác tiếp tục đến Trung Hoa như An Thế Cao (Arsakes ) năm 147 đến Lạc Dương, ngài đã dịch kinh Tiểu thừa như Tứ Ðế Kinh, Chuyển Pháp Luân Kinh, Bát Chính Ðạo Kinh rồi sau đó ngài Chi Lâu Ca Sắm (Lokaraksa ) đến Trung Hoa trong khoảng 178-189, trong 12 năm ngài đã dịch nhiều kinh điển Ðại thừa như Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Bang Chu Tam Muội, Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác, hai ngài đã dịch một số kinh, là nền tảng vững chắc cho Phật Giáo từ đây.

III.- Những thời kỳ hưng thịnh

1) Thời kỳ thứ nhất (Thế kỷ 3 đế Thế kỷ 4): Trong thời kỳ này có những vị sư Ấn độ, Tây vực, Việt nam sang truyền đạo trong đó có ngài Ðàm Ma La Sát (Dharmaraksha) tức là Trúc Pháp Hộ là người dịch kinh nổi tiếng hơn cả, ngài đi tu lúc 8 tuổi, tinh thông Lục kinh, Bách gia chu tử, sau lại sang Tây vực nghiên cứu kinh điển, là người bác học đa văn cho nên đệ tử theo ngài có hàng ngàn, mến đức độ ngài nên tôn xưng ngài là Ðôn Hoàng Bồ Tát (ngài sanh ở Ðôn Hoàng, tỉnh Cam Túc).

Sau đó ngài Cưu Ma La Thập, tiếp nối sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, đã đưa Ðạo Phật ở Trung Hoa đến địa vị vô cùng rực rở.

Phong trào Nhập Trúc Cầu Pháp tức là đi sang Thiên Trúc (Ấn Ðộ để học hoỉ giáo lý), mở đầu là ngài Chu Sĩ Hành đời Tam Quốc tới Tây Vực, sau này có ngài Pháp Hiểnnổi tiếng nhất trong thời kỳ nầy, ngài đi từ Tràng An năm 339, sang Ấn Ðộ đi nhiều nơi và về đến Thanh Châu (Sơn Ðông) năm 414, ngài có sáng tác Phật Quốc Ký, sách có giá trị để nhiên cứu trạng thái Phật Giáo Ấn Ðộ thời bấy giờ.

2) Thời kỳ thứ hai (Thế Kỷ V đến thế kỷ VI): Trong thơì kỳ nầy, có nhiều cao tăng gây thêm uy tín cho Ðạo Phật như Ngài Huệ Lâm được tham dự triều chính. Thời kỳ này có Lương Võ Ðế là ông vua tin Phật Giáo đứng bậc nhất trong Lịch Ðại Hoàng Ðế ở Trung Hoa. Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma vị Tổ thứ 28 từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa năm 520, lập thành Thiền Tôn Trung Hoa, sau ngài truyền Y BátKinh Lăng Già cho Huệ Khả, Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, Tăng Xán truyền cho Ðạo Tín, Ðạo Tín truyền cho Hoằng Nhẫn, đệ tử của Hoằng NhẫnThần Tú ở phương Bắc, Thiền phương Bắc của Thần Tú gọi là Bắc Tiệm và Hoằng Nhẫn truyền Y Bát cho Huệ Năng ở phương Nam gọi là Thiền Nam Ðốn, đến Huệ Năng bỏ lệ truyền Y Bát, sau này Thiền Tôn của Huệ Năng chia thành 5 tôn là: Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Ðộng, Vân MônPháp Nhãn. Lâm Tế Tôn sau chia thành 2 phái là: Hoàng Long và Dương kỳ. Lịch sử Phật Giáo Trung Hoa gọi là "Ngủ Gia, Thất Tôn".

Thiền Tôn nhiều đời truyền sang Việt Nam nổi tiếng như Tỳ Ni Ða Lưu Chi sang Việt Nam ở chùa Pháp Vân, năm 580 lập phái Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi; Vô Ngôn Thông đến Việt Nam năm 820, lập thành phái Vô Ngôn Thông, đệ tử của ngài Tuyết Ðậu lập nên phái Thảo Ðường. Ngài Nguyên Thiều phái Lâm Tế sang Việt Nam vào thế kỷ 17.

3) Thời kỳ thứ ba (Thế kỷ VII đến thế kỷ IX): Ðến đời Ðường Thái Tôn, sau thời gian giặc giả, Phật Giáo hưng thịnh, có Trần Huyền Trang (600-664) đi sang Ấn Ðộ học hỏi giáo lý từ năm 629, đến năm 645 mới trở về, ngài có đến Na Lan Ðà (Nalanda) thụ giáo với ngài Giới Hiền Luật sư, thỉnh được nhiều Xá Lợi Phật và kinh đem về Tràng An, được vua Ðường Thái Tôn rất quý trọng, vua cho xây Ðại Từ Ân để ngài tổ chức việc dịch kinh, ngài dịch được 76 bộ gồm 1349 quyển. Ngài Huyền Trangsáng tác Ðại Ðường Tây Vực Ký gồm 12 quyển, ghi chép trạng thái tôn giáo, địa lý, lịch sử, phong tục Ấn Ðộ thời bấy giờ, dân gian dựa theo đó sáng tác thành truyện và Ngô Thừa Ân ghi chép lại thành truyện Tây Du Ký. Sau này còn có Nghĩa Tịnh (635-713), cũng đi sang Ấn Ðộ bằng đường biển năm 671, ngài cầu học trong 20 năm, thỉnh về nhiều kinh, dịch ra 68 bộ gồm 290 quyển. Ngài có sáng tác Ðại Ðường Cầu Pháp Cao Tăng và Nam Hải Ký Quy Truyện ghi chép trạng thái Phật Giáo Ấn Ðộ đương thời.

4) Thời Kỳ thứ tư (960-1661): Tống Thái Tổ sau khi tức vị liền lo việc phục hưng Phật Giáo, vì đã bị phế Phật của Thế Tôn nhà Hậu Chu, vua độ cho 800 đồng tử xuất gia, mời danh tăng vào cung giảng đạo, ban áo màu tía, sai 157 người đến Tây Vực cầu pháp, hạ sắc lệnh khắc Ðại Tạng Kinh, vua Thái Tôn cũng tận lực phục hưng Phật Giáo, đến đời nhà Minh (1368-1661) vua Thái Tổ nhà Minh là Chu Nguyên Chương vốn là một vị Sa Di, nên sau khi lên ngôi, ngài lo chấn hưng Phật Giáo, các vua nhà Minh ngoại hộ, sự thống lĩnh giáo đoàn chỉnh đốn trang nghiêm, nên Phật Giáo được hưng thịnh một thời.

IV.- Những thời kỳ suy vong

Phật Giáo Trung Hoa có những thời kỳ bị pháp nạn suy vong, tất cả có 4 lần, thường được tóm tắc là "Tam Võ, Nhất Tôn chi ách" hay "Tam Võ Nhất Tôn pháp nạn".

1) Thời kỳ thứ nhất , Võ Ðế Bắc Nguỵ phá Phật (446): Vua Thái Võ Ðế lúc đầu cũng tin theo Phật, nhưng về sau tin theo quan Tư Ðồ là Thôi Hạo, người có hoài bảo lấy Nho giáo làm trung tâm văn hóa và Ðạo sĩ Khẩu Khiêm Chi là người tận lực hoằng dương Ðạo Giáo, nên cả hai có ý tiêu diệt Phật Giáo, khi Thiểm Tây có Cài Ngộ nổi loạn, vua thân chinh đi dẹp, tới chùa Tràng An khám thấy trong chùa có vũ khí, lại nghe lời gièm pha của Thôi Hạo và Khẩu Khiêm Chi nên vua ra lệnh phá bỏ Phật Giáo (năm 446). Lệnh nầy ban ra nhiều chùa chiền bị phá hay tịch thu dùng vào việc khác. Tăng Ni phải trốn vào rừng sâu núi thẳm hay hoàn tục, sau khi Võ Ðế mất, con là Văn Thành Ðế lên ngôi liền cho phục hưng lại Phật Giáo.

2) Thời kỳ thứ hai, Võ Ðế Bắc Chu phá Phật (577): Võ Ðế Chu có hoài bão thống nhất lễ giáo, thôn tính Bắc Tề, thống nhất thiên hạ và năm 567 có Vệ Nguyên Trung dâng vua đề án, phá bỏ các chùa, chỉ lập một chùa lớn là Bình Ðẳng Diên Tự, ngôi chùa này là nơi quy tụ vạn dân, Hoàng Ðế tức là Như Lai, có những cuộc tranh luận tại triều đình giữa Ðạo Giáo và Phật Giáo, Ðại Giáo thua cuộc, vua hạ lệnh phế bỏ cả Ðạo Giáo và Phật Giáo (574), sau khi chiếm được Bắc Tề, vua hạ lệnh phá bỏ Phật Giáo ở Bắc Tề (577). Sau khi Võ Ðế mất, con là Tuyên Ðế lên ngôi năm 579, chấp thuận lời cầu xin của sư Ðạo Lâm, liền cho phục hưng lại Phật Giáo và Ðạo Giáo.

3) Thời kỳ thứ ba, Võ Tôn Phế Phật hay Hội Xương Pháp nạn (842): Hoàng thất nhà Ðường có họ với Lý Nhĩ (Lão Tử), nhà Ðường tin tưởng Lý Nhĩ là tổ tiên, đến đời Võ Tôn nghe lời Ðạo Sĩ Triệu Quang Chân nên thẳng tay phá hủy Phật Giáo. Năm 842 vua hạ lệnh Tăng Ni phạm giới luật hoàn tục, đến năm 844 vua hạ lệnh phá hủy hết các chùa nhỏ, Tăng Ni ở các chùa bị phá bỏ phải hoàn tục. Năm 845, lại hạ lệnh ở thành Lạc Dương và Tràng An, mỗi nơi chỉ để lại 4 ngôi chùa và 30 vị Tăng, ở châu huyện nhỏ, mỗi nơi một ngôi chùa và 20 Tăng Ni, chùa còn lại bị phá hủy hay làm nơi công cộng của quốc dân, Tăng Ni còn lại phải hoàn tục. Kết quả 44600 ngôi chùa bị phá, 260500 Tăng Ni phải hoàn tục. Võ Tôn mất năm 846, con là Tuyên Tôn lên ngôi, liền cho phục hưng Phật Giáo.

4) Thời kỳ thứ tư, Thế Tôn Anh Mại đời Hậu Chu phương Bắc (955): Vua bẩm tính võ đoán lại không tôn sùng đạo Phật, nên năm 955, nhà vua hạ lệnh phá huỷ 3356 ngôi chùa không tên tuổi, tượng Phật và đồ bằng đồng đem đúc thành tiền. Sau Pháp nạn nầy, còn lại 2964 ngôi chùa và 91200 Tăng Ni.

Trong khi đó thì phương Nam vẫn được truyền bá như nước Ngô Việt ở Hàng Châu, đặc biệt có Trung Ý Vương Tiền Hoàng Thúc theo gương vua A Duc, dựng 8400 ngọn tháp ở rải rác các nơi trong địa phận cai trị, vì trong nước chiến tranh, kinh điển không còn đủ, nên sai sứ sang Cao Ly thỉnh kinh. Hàng Châu trở nên căn cứ địa cho sự phục hưng của cận thế Phật Giáo.

V. Các Tông Phái Phật Giáo

Ðất nước Trung Hoa rộng lớn, nhiều thời, đất nước Trung Hoa bị nội chiến vì tranh dành quyền bính cai trị, chia cắt nhiều nơi, nền văn minh của Trung Hoa phát triển sớm và có khuynh hướng siêu hình cho nên Khổng Giáo, Ðạo Giáo và Phật Giáo dễ phát triển, chẳng những vậy mà Khổng Giáo cũng như Phật Giáo đều có những triển khai thành những tông phái mới, do vậy mà Phật Giáo Trung Hoa có những tông phái sau:

1) Tỳ Ðàm Tôn: Tôn này y vào Luận Tạng trong Tam Tạng của Tiểu thừa, để nghiên cứu nên gọi là Tỳ Ðàm Tôn, chủ trương Tam thế thực hữu và Pháp thể hằng hữu của Tiểu thừa Hữu bộ.

2) Niết Bàn Tôn: Tôn này y cứ vào Kinh Niết Bàn, nên gọi là Niết Bàn Tôn, chủ trương hết thảy chúng sanh đều có Phật tính, nên tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật.

3) Thành thật tôn: Tôn này y cứ vào Luận Thành Thực nên gọi là Thành Thực Tôn, thuyết minh về tư tưởng Nhân - Pháp câu không.

4) Tam Luận Tôn: Tôn này y vào 3 bộ luận là Trung Luận, Bách LuậnThập Nhị Môn Luận làm căn cứ nên gọi là Tam Luận Tôn, chủ trương phá tà hiển chính. Thí dụ như phá 8 cái mê vọng như sinh, diệt, khứ, lai, nhất, dị, đoạn, thường; hiển chính là làm rõ 8 cái lý chân chính như không sinh, không diệt, không đi, không lại, không một, không khác, không đoạn, không thường của Trung đạo.

5) Tịnh Ðộ Tôn: Tôn này hoằng truyền pháp môn Vãng sinh Tịnh độ nên gọi là Tịnh Ðộ Tôn. Tôn nầy căn cứ vào 3 kinh và một bộ luận: Kinh Vô Lượng Thọ nói về tiền thân của Phật A Di Ðà, khi còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo đã phát 48 lời nguyện. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về phép quán tưởng niệm Phật. Kinh A Di Ðà nói về Cảnh giới cực lạc và luận Vãng Sinh Tịnh Ðộ là bộ luận thâu tóm ý nghĩa ba bộ kinh trên.

6) Nhiếp Luận Tôn: Tôn này căn cứ vào Nhiếp Ðại Thừa Luận nên gọi là Nhiếp Luận Tôn, tôn nầy lấy Duy Thức pháp môn làm mục tiêu, cũng giống như Pháp Tướng Tôn.

7) Ðịa Luận Tôn: Tôn này y cứ vào Thập Ðịa Kinh Luận, gọi tắc là Thập Ðịa Luận hay Ðiạ Luận Tôn, nương theo giáo nghĩa của Thập Ðịa Bồ Tát để tu hành, mong đạt tới thập quả.

8) Thiền Tôn: Tôn này tu tập Thiền Ðịnh nên gọi là Thiền Tôn hay Phật Tâm Tôn, chủ trương trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật, nghĩa là không câu nệ vào văn tự, kinh điển mà chỉ nương công phu tu định để ngộ được Phật tính của chính mình.

9) Mật Tôn: Tôn này y vào giáo lý bí mật của kinh Ðại Nhật và Kim Cương Ðính nên gọi là Mật Tôn hay Chơn Ngôn Tôn, chủ trương lục đại dung thông là lý tánh hay chơn như, phương pháp tu hành trọng yếuTam mật tương ứng gồm: Thân mật, Ngữ mậtÝ mật. Tay bắt ấn gọi là Thân mật, miệng niệm chân ngônNgữ mật, tâm chuyên vào thiền địnhNgữ mật. Vậy chúng sanh muốn tu thành Phật phải tu theo Tam mật.

10) Duy Thức Tôn: Duy Thức Tôn hay Pháp Tướng Tôn không nói về tâm tánh Chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức tức là tướng của các pháp, chủ trương vạn hữu hay các pháp đề do thức biến hiện, ngoài thức không có gí khác nữa.

11) Thiên Thai Tôn: Tôn này do Ngài Trí Khải ở núi Thiên Thai, nên có tên là Thiên Thai Tôn, y cứ vào kinh Pháp Hoa nên cũng có tên là Pháp Hoa Tôn, giáo nghĩa cương yếu của tôn nầy là Nhất Tâm Tam Quán nghiã là trong tâm con người có đủ: Không Quán, Trung QuánGiả Quán. Tôn nầy chia giáo lý của Phật thành 5 thời gọi là Ngủ thời Bát giáo: Thời Hoa Nghiêm, thời A Hàm, thời Phương Ðẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp HoaNiết Bàn

12) Luật Tôn: Tôn này y cứ vào luật Tứ Phận, nên gọi là Tứ Phận Luật Tôn hay gọi tắc là Luật Tôn, yếu nghiã của Luật Tôn là bàn về Giới, trong giới chia ra Chỉ trì giớiTác trì giới. Chỉ trì giới là không làm điều ác "Chư ác mạc tác" và Tác trì giới là làm các việc lành "Chúng thiện phụng hành".

13) Câu Xá Tôn: Tôn này căn cứ vào Câu Xá Luận làm Thánh điển căn bản nên gọi là Câu Xá Tôn, đem vạn pháp trong vũ trụ chia thành Hữu vi phápVô vi pháp. Trong Hữu viVô vi chia thành 5 vị, trong 5 vị có 75 pháp như sau:

Hữu vi: - Sắc pháp --------------------------11

 - Tâm pháp --------------------------- 1

Vạn Pháp: - Tâm sở pháp ----------------- 46 75 pháp

 - Bất tương ưng hành pháp--14

Vô vi: ------------------------------------------- 3

14) Hoa Nghiêm Tôn: Tôn này y cứ vào Kinh Hoa nghiêm nên gọi là Hoa Nghiêm Tôn, chủ trương Nhất tâm chân như, Pháp giới duyên khởi. Nhất tâm chân nhưvạn vật do tâm mà sinh ra pháp giới khác nhau, còn pháp giới có: Sự pháp giới, Lý pháp giới, Sự Lý vô ngại pháp giới, Sự Sự vô ngại pháp giới, nói chung sự lý viên dung vô ngại.

V.- Phật giáo Trung quốc cận đại

Sau đời nhà Minh, Phật Giáo Trung Hoa không được như trước, cho đến khi Trung Hoa canh tân sau nầy, năm 1912, có ngài Kính An chùa Thiên Ðồng thống họp Tăng tục hai tỉnh Giang Tô và Triết Giang thành lập Trung Quốc Phật Giáo Tổng Hội ngay tại Thượng Hải, để mở đường cho Tân Phật Giáo, năm 1913, có ngài Ðạo Giai và Hải Thanh thành lập Trung Ương Phật Giáo Công Hội ở Bắc Kinh, đến năm 1924 có ngài Thái Hư Ðại Sư đứng ra thành lập Trung Quốc Phật Giáo Liên Hiệp Hội là cơ quan trung ương, có nhiều cơ quan địa phương, sau đến 1930, Trung Quốc Phật Giáo Hội mở Ðại hội lần thứ nhất ở Thượng Hải, tôn ngài Viên Anh làm Hội Trưởng, thành phần chủ yếu trong hội là các ngài Thái Hư, Ấn Quang, Ðế Nhàn, Ðạo Giai, Viên Anh, Nhân Sơn, Viên Nhất Ðình, Ðại Bi. . ., ngài Thái Hư chủ trương canh tân, ngài Viên Anh chủ trương bảo thủ, công cuộc hoằng dương chánh pháp của các ngài rất sâu rộng, nào là tu sửa chùa chiền, mở trường đào tạo tăng tài, khắc bản kinh, xây dựng những cơ sở vật chất ngài Thái Hư đi viễn du thuyết pháp ở ngoại quốc, công cuộc chấn hưng nầy gây nhiều ảnh hưởng cho các nước nhất là Việt Nam, nhờ đó mà phong trào phục hưng khắp nước ta.

Phật Giáo Trung Hoa phát triển như thế, cho nên chúng ta cần phải biết rõ để dễ hiểu Phật Giáo Việt Nam vậy.

Sách tham khảo:

Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh, Sài Gòn 1965
Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông Khóa V, THPGT/PHCH, Việt Nam, 1989.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34387)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16883)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22984)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13067)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21977)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22211)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14878)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23603)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24137)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23663)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17160)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19370)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27096)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14436)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13857)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22701)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14768)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17376)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12692)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13890)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10428)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14720)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17211)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12565)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12731)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10384)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28731)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10726)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11146)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16892)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15791)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13357)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12568)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11386)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13038)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19324)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12265)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28644)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10064)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21572)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12805)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17842)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26279)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11723)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10869)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22776)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12060)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10619)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11424)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11544)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant