Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ Nhì: Ðộ Yassakulaputta

09 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 7732)
Thiên Thứ Nhì: Ðộ Yassakulaputta

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT TỔ CỒ ĐÀM

Maha Thongkham Medhivongs

THIÊN THỨ NHÌ

ÐỘ YASSAKULAPUTTA

-ooOoo-

Trong khi đức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giã. Trong thành Bàrànasì có một ông Trưởng giả có một người con tên là YASSA. Ông xây cho con ông ba tòa lầu cao để ở trong ba mùa; trong các tòa lầu đều có đủ thú vui của Trưởng giả, sự hưởng hạnh phúc của cõi đời nầy Yassa không thiếu một chi, sánh như đức Thái tử Sĩ Ðạt Ta khi còn tại vì.

Ðêm nọ ông Yassa cảm thấy mệt không còn hứng thú trong việc vui chơi, nên ông cho mỹ nữ được ngủ sớm. Trong phòng ông chưng bày ngọc ngà châu báu, màu sáng của đèn làm cho chiếu hào quang xinh đẹp. Thật là cảnh thần tiên trong đời nầy vậy.

Sau khi nghỉ được một lúc ông liền tỉnh lại trong giữa đêm trường tĩnh mịch. Ông liền nhìn quanh phòng, trông thấy những mỹ nữ nằm ngủ quanh ấy như những tử thi sình, mùi hôi thối bốc ra lấy làm khó chịu, những cái xinh đẹp không còn có ở những mỹ nữ ấy nữa, càng nhìn càng ghê tởm; nhìn qua bàn ghế mền mùng châu ngọc cũng trở thành những vật không đẹp, ông cảm thấy tự mình đang lạc lõng ở trong bãi tha ma, nghe tiếng ngáy của mỹ nữ không khác nào tiếng những con thú rừng đang giành ăn những tử thi sình. Ông thấy chán nản với sự giàu sang và kinh sợ cảnh cô đơn giữa rừng thanh vắng hoang vu, càng ngắm càng sợ những tử thi kia. Ông chán nản với cảnh ấy bằng cảm tưởng thật là kinh khủng và ghê tởm. Ông mới có cảm tưởng rằng: Lẽ cố nhiên người còn trong vòng tại gia cư sĩ là người còn gần vòng tai hại đủ điều. Khi ấy ông mới xuống lầu ra đi. Nhưng ông cũng không biết đi đâu. Khi ấy chư Thiên trong gia đình ông mới mở cửa cho ông ra đi một cách êm đềm không ai hay biết rằng ông đã ra đi. Chư Thiên có ý hộ trì ông đi xuất gia được dễ dàng.

Ðồng thời ấy, đức Thế Tôn đang đi kinh hành trông thấy ông Yassa từ xa đi đến, nên Ngài lại đến ngự trên pháp tọa.

Còn ông Yassa lần lần đi đến nhưng ông vẫn lẩm bẩm nói rằng: Nơi đây thật là nơi bẩn chật.

Ðức Thế Tôn mới bảo rằng: Nầy Yassa, nơi đây là nơi không có sự bẩn chật, tai hại, ngươi hãy đến và ngồi nơi đây, Như Lai sẽ thuyết pháp cho người nghe.

Ông Yassa nghe qua lời của đức Phật như thức tỉnh trong cơn mê. Tiếng nói của đức Thế Tôn đã êm dịu nhẹ nhàng mà đầy từ ái không khác nào tiếng mẹ ru con. Ông đã được nghe rất nhiều tiếng thanh tao êm dịu, nhưng không từng có một tiếng nào làm ông rung động cảm mến như tiếng của đức Thế Tôn. Ông lật đật cởi đôi giày bằng vàng ra bỏ nơi ấy và đi ngay vào nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong ngồi nơi nên ngồi.

Ðức Thế Tôn mới thuyết pháp gọi là ANUPUBBIKATHÀ nghĩa là pháp đi theo tuần tự có năm điều là:

1) DÀNAKATHA. Dạy về sự bố thí.

2) SÌLA LAKATHA. Dạy về sự trì giới.

3) SAGGAKATHA. Nói về sự an vui trong cõi thiên đàng.

4) KAMADINAVAKATHA. Nói về tội của ngũ uẩn. Là dạy cho thấy ngũ trần là nhân đem sự khổ đến chúng sanh, và cũng vì ngũ trần ấy nên chúng sanh bị luân hồi mãi.

5) NEKKHAMASAMSAKATHA. Dạy về quả báo của sự thoát ly gia đình. Nghĩa là nói đến quả báo của người không có gia đình chỉ biết lo tu hành mau giải thoát.

Sau bài nầy đức Thế Tôn mới dạy pháp Tứ Diệu Ðế. Ông Yassa đắc được Pháp nhãn nghĩa là trông thấy rõ các pháp hay là đã vào hàng Dự lưu nghĩa là đắc Tu-đà-hườn quả.

Nói về mẹ ông Yassa thường thường đến lầu ông mỗi buổi sáng để thăm con, khi bà đến thấy cửa lầu mở mà không thấy con, bà lấy làm kinh sợ chạy đi cho chồng hay. Ông liền cho người nhà chia nhau đi tìm ông Yassa, còn ông thì ông đi thẳng đến vườn Lộc Giã. Khi đến nơi ông trông thấy đôi giày làm bằng vàng của con ông, ông liền đi thẳng vào nơi Phật ngự.

Ðức Thế Tôn thấy cha ông Yassa đi đến, mới nghĩ rằng: Như Lai phải dùng thần thông không cho ông Trưởng giả thấy con đang ngồi kế bên ta. Ngài liền dùng thần không cho ông Trưởng giả thấy con chỉ thấy có một mình đức Thế Tôn thôi. Khi ấy ông mới đến gần đức Phật và hỏi đức Phật có trông thấy một người thanh niên đi qua ngang đây không?

Ðức Thế Tôn dạy rằng: Nầy ông Trưởng giả, ông hãy ngồi xuống đây, rồi ông sẽ gặp lại con ông. Ông Trưởng giả nghe thế làm mừng và ngồi xuống hầu Phật.

Ðức Thế Tôn thuyết bài Pháp như Ngài đã thuyết cho ông Yassa nghe. Ông Trưởng giả đắc Tu-đà-hườn quả, ông mới bạch Phật rằng: Bạch đức Thế tôn tôi xin qui y Phật, qui y Pháp và qui y Tăng. Xin đức Thế Tôn nhận biết cho tôi là người thiện nam. Từ đây tôi nguyện xin làm đệ tử Tam bảo cho đến trọn đời. Ðây là vị thiện nam thọ Tam qui đầu tiên trong Phật giáo.

Riêng đức Yassa cũng nghe pháp như cha ông, ông lại đắc được A-la-hán quả tuệ. Ðức Thế Tôn biết rằng: Ông Yassa đã đắc A-la-hán quả rồi, tâm không còn rung động về pháp thế gian nữa, ngũ trần đối với ông như nước bọt đã nhổ ra không hề liếm lại được. Khi ấy đức Thế Tôn thâu thần thông lại để ông Trưởng giả trông thấy con ông. Khi ông Trưởng giả thấy Yassa, ông liền bảo rằng: Con ơi, hiện giờ mẹ con đang nóng lòng chờ đợi con và đang than khóc, con hãy đem lại cho mẹ con đời sống (ý nói nếu con không về thì mẹ con tức mà chết).

Ðức Thế Tôn mới dạy rằng: Nầy ông Trưởng giả, ông nghĩ sao khi mà Yassa đã đắc được A-la-hán quả rồi, trở nên người diệt tận phiền não, là bực không còn luyến tiếc trần tục. Vậy người như thế còn trở lại cuộc đời thế tục không?

- Bạch đức Thế Tôn, Thánh quả là vật tối cao tuyệt mà con của đệ tử đã đắc được thật cao quí vô cùng. Vậy đệ tử xin thỉnh đức Thế Tôn đến thọ thực ở nhà đệ tử có Yassa và chư Tăng theo hầu, hầu đem lại hạnh phúc lâu dài cho chúng đệ tử.

Ðức Thế Tôn nhận lời bằng cách lặng thinh, ông Trưởng giả biết nên đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi ra về. Sau khi ông Trưởng giả ra về, ông Yassa xin Phật xuất gia. Ðức Thế Tôn cho xuất gia bằng cách EHI BHIKKHU ngươi hãy trở nên vị Tỳ khưu. Râu tóc của ông rụng và đồ mặc trong mình trở nên bộ cà sa vàng và bát. Phương pháp nầy chỉ có vị Ðại Ðức nào xuất gia với Phật và đã đắc quả Thánh. Sau nầy chúng sanh ít duyên lành nên xuất gia với chư Tăng có thầy Tế độ và thầy Tiếp dẫn có hai mươi vị Tỳ khưu chứng minh và phải có tuyên ngôn bốn lần.

Sau khi xuất gia xong, đức Thế Tôn dẫn Ngài Yassa. Mẹ và bà vợ hai của ông Yassa ra hầu. Ðức Thế Tôn thuyết pháp cho hai người nghe, cả hai đều đắc quả Tu-đà-hườn, cũng xin thọ Tam quingũ giới.

Trong khi ấy, trong thế gian nầy có một Thiện nam thọ Tam qui trước nhất là cha Ngài Yassa, còn hai người Tín nữ thọ Tam qui đầu tiên là mẹ và vợ ông Yassa. Thiện namTín nữ nầy đều là hàng Dự lưu nghĩa là Tu-đà-hườn quả. Vì cha và mẹ ông Yassa đã đắc quả Thánh rồi nên rất bằng lòng thấy ngài Yassa là bực Tỳ khưu.

Trong khi ấy có bốn người bạn của ngài Yassa cũng là con của Trưởng giả tên là: 1) VIMALA. 2) SUBAHU. 3) PUNNASI. 4) GAVAMPATI được tin rằng: Ngài Yassa đã xuất gia mới rủ nhau đến hầu và thăm. Ngài Yassa mới dẫn bốn ông ấy đến hầu đức Thế Tônyêu cầu đức Thế Tôn tiếp độ bốn người bạn.

Ðức Thế Tôn mới thuyết pháp cho bốn vị ấy nghe như Ngài đã thuyết cho Ngài Yassa nghe. Bốn vị ấy đều đắc quả Tu-đà-hườn cùng một lúc, rồi xin xuất gia. Sau lại đức Thế Tôn Tôn thuyết bài kinh gọi là OVÀDÀNUSÀSANA cả bốn vị đều đắc A-la-hán quả.

Trong khi ấy trong thế gian nầy có mười một vị Thánh nhơn. Một vị Chánh đẳng Chánh giác là mười vị A-la-hán là năm vị Kiều Tr?n Như và Ngài Yassa cùng bốn người bạn.

Khi ấy có năm mươi người bạn của Ngài Yassa cũng con của các vị Trưởng giả ở ngoại ô, nghe tin rằng: Yassa xuất gia nên rủ nhau đến hầu Ngài. Ngài Yassa liền dẫn năm mươi người bạn đến hầu Phật. Sau khi nghe pháp xong xin xuất gia luôn. Sau năm mươi vị cũng đắc A-la-hán quả. Khi ấy trong thế gian nầy có được sáu mươi mốt vị Thánh nhơn.

Ðức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giã đến rằm tháng mười, Ngài gọi sáu mươi vị đại A-la-hán đến và dạy rằng: Nầy chư Tăng, nay các vị đã đắc Tuệ giác, có Tứ chánh cầngiải thoát hoàn toàn; các Thánh pháp mà chư Thánh nhơn trong lúc quá khứvị lai nhứt là đức Chánh đẳng Chánh giác đã đắc và sẽ đắc đối với quí vị đã đắc rồi.

Liền trong khi ấy Ma vương hiện ra trước mặt Phật và ngâm bài kệ như vầy. BHANDHOSI SABBAPÀSEHI v.v.. Nghĩa là: Thưa ông đại Sa môn; ông đã sa vào cạm bẫy của tôi, những cạm bẫy ấy làm bằng pháp mầu của Thiên vương, và cũng làm bằng tất cả các phương pháp của người trần gian, nhưng Ngài đã phá hỏng những cạm bẫy ấy mà giải thoát khỏi uy quyền của tôi.

Ðức Thế Tôn liền đáp bằng lời kệ rằng: MUTTOHAM SABBAPÀSEHI v.v.. Nghĩa là: Hỡi nầy Ma vương hung ác, tất cả cạm bẫy của ngươi bằng pháp mầu cũng như bằng các phương pháp nào trong thế gian nầy, Như Lai đã hoàn toàn giải thoát rồi.

Ma vương lại nói câu kệ: ANTALIKKHE CAROPOSO. Người đi trong hư không hay đi trong thế gian nầy, những chỗ ấy đều ở trong cạm bẫy của tôi. Vì vậy ông Sa môn còn ở trong thế gian nầy cũng chưa chắc thoát khỏi tôi.

Ðức Thế Tôn liền dạy rằng: RÙPÀ SADDÀ GANGHA RASÀ v.v.. Ngũ trần là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc là vật mà chúng sanh ưa chuộng mến yêu. Như Lai không còn luyến tiếc nữa. Như Lai đã hoàn toàn giải thoát khỏi những cạm bẫy của người. Nầy Ma vương tâm đầy tội ác, ngươi hãy rời khỏi nơi đây cho mau.

Ma vương biết rằng: Không thế nào thắng hay ít nhứt là làm cho đức Thế Tôn rung động. Nên buồn rầu thất vọng bỏ ra đi.

Ngày mười sáu tháng mười Âm lịch đức Thế Tôn cho nhóm sáu mươi vị Thánh Tăng, và Ngài truyền cho mỗi vị đi mỗi nơi nào thích hợp với ý mình để truyền đạo.

PHẬT NGÔN

Naham samissami pamocanàya
Kathamkathim dhotaka Kinci loke
Dhammanca settham abhajànamàno
Evam tvam oghamiman tareti.

Nầy Dhotaka, Như Lai không thể cứu độ người có sự nghi ngờ trong thế gian cho giải thoát được. Nhưng các vị thông thấu các pháp cao quí mới giải thoát được. (Tạng kinh bộ Khuddakanikaya, đoạn Mahàniddesa).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28202)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6695)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8793)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9323)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15400)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8259)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8688)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16743)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26992)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18690)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15669)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22557)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19487)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18372)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16217)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25661)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12896)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37876)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20106)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10725)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10046)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10564)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10399)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11049)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15248)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10852)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19709)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11718)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10789)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11255)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10117)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10575)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11561)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10899)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11413)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12168)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11074)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13026)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17792)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15256)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15730)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11007)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12119)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11053)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21873)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12101)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9184)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20186)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17269)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10110)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant