Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ Mười Bốn: Hai Vị Ðại Ðệ Tử Nhập Niết Bàn

09 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 7890)
Thiên Thứ Mười Bốn: Hai Vị Ðại Ðệ Tử Nhập Niết Bàn

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT TỔ CỒ ĐÀM

Maha Thongkham Medhivongs

THIÊN THỨ MƯỜI BỐN

HAI VỊ ÐẠI ÐỆ TỬ NHẬP NIẾT BÀN

-ooOoo-

Hạ thứ bốn mươi lăm đức Thế Tôn nhập hạ tại làng Veluvagàma, sau khi ra hạ đức Thế Tôn gọi Ðại Ðức Xá Lợi Phất dạy: Nầy Xá Lợi Phất, không còn bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết Bàn, vậy chúng ta nên đến thành Thất La Phiệt.

- Thiện thay, lành thay!

Khi ấy đức Thế Tôn cùng chư Tăng về thành Thất La Phiệt. Khi đến nơi, Ngài Ðại Ðức đảnh lễ đức Thế Tôn liền dẫn đệ tử về chùa Divàvihàra. Khi các đệ tử lo sửa soạn chỗ Ngài (Xá Lợi Phất) xong, Ngài liền vào tư thất tham thiền. Khi xả đại định Ngài mới nghĩ: Theo thường lệ của chư Phật lúc quá khứ, đức Chánh đẳng Chánh giác nhập diệt trước hai vị đại đệ tử, hay hai vị đại đệ tử nhập diệt trước chư Phật. Ngài biết rõ rằng: Lẽ thường thì hai đại đệ tử phải nhập diệt trước đức Thế Tôn.

Ngài liền dùng trí tuệ xem coi tuổi thọ của Ngài còn được bao lâu. Ngài thấy rằng: Tuổi thọ của Ngài chỉ còn bảy ngày nữa thôi. Ngài mới nghĩ: Ta phải nhập diệt nơi nào? Ðại Ðức A Nhã Kiều Trần Như nhập diệt ở tại ao Chaddanta nơi rừng Tuyết Lãnh, còn ông Ra Hầu La nhập diệtcõi trời Ðạo Lợi, vậy còn ta phải nhập diệt nơi nào? Ngài liền nhớ đến thân mẫu Ngài: Mẹ ta là người sanh ra bảy vị A-la-hán mà đến nay cũng chưa phát tâm tín thành nơi Tam bảo, vậy mẹ ta không có duyên lành để giải thoát chăng? Ngài dùng trí tuệ quan sát thấy mẹ Ngài có duyên đắc Tu-đà-hườn quả; và Ngài tự hỏi: Vậy mẹ ta đắc quả ấy bằng cách nào? Phải đắc quả chung với hàng đại chúng chăng? Ngài thấy rõ mẹ Ngài có duyên với Ngài, nghĩa là phải nghe thời pháp sau cùng của Ngài mà đắc quả. Ngài liền nghĩ rằng: Nếu ta cứ lo hạnh tri túc không về gia đình thì không thể nào độ mẹ ta được. Về sau nầy sẽ có nhiều người chỉ trích ta rằng: Ðại Ðức Xá Lợi Phất là vị đại đệ tử tay phải của đức Thế Tôn độ rất nhiều tín đồ được các đạo quả Niết bàn và sanh về Thiên cung vô số kể mà Ngài không độ được mẹ Ngài. Kể từ khi ta thuyết thời pháp Cittasutta độ chúng sanh rất nhiều có chư thiên đắc đến A na hàm quả, hạng ít căn cơ nhứt là được sanh về cõi trời. Tại sao ta lại không cứu độ thân mẫu ta thoát khỏi vòng tà kiến? Vậy ta phải gở cái lưới tà kiến ấy cho mẹ ta, rồi ta sẽ nhập diệt nơi phòng khi mẹ ta vừa sanh ta. Ta phải đến xin phép đức Thế Tôn để ta nhập diệt.

Ngài liền gọi Ðại Ðức Chunda là em Ngài đến dạy rằng: Nầy sư đệ Chunda chúng ta phải về quê thăm mẫu thân. Sư đệ hãy cho năm trăm vị Tỳ khưu biết rằng: Ta về làng Nàlandagàma .

Ðại Ðức Chunda vâng lời tuyên ngôn cho chư Tăng biết chuyện ấy, để các Ngài chuẩn bị ra đi với Ngài Ðại Ðức Xá Lợi Phất.

Ðại Ðức Xá Lợi Phất đến đảnh lễ đức Thế Tôn và nói câu kệ:

CHINNO DÀNI VISSÀSO v.v...

Nghĩa: Bạch hóa đức Thế Tôn, sự hầu hạ của đệ tử đối với Ngài sẽ dứt lìa kể từ ngày hôm nay, đây là lần đảnh lễ cuối cùng của đệ tử đối với Ngài, đệ tử chắc chắn không còn dịp trở lại đảnh lễ Ngài nữa. Ðời sống của đệ tử còn chỉ có bảy ngày nữa thôi. Ðệ tử sẽ bỏ thân ngũ uẩn nầy, ví như người để được gánh nặng trong đường xa xuống. Xin đức Thế Tôn từ bi cho phép đệ tử xin từ giã Ngài nhập Niết bàn.

Khi đức Thế Tôn nghe vậy mới nghĩ: Lẽ cố nhiên của vị Chánh đẳng Chánh giác không nên nói rằng: Ngươi hãy nhập diệt đi, mà cũng không thể nói rằng: Ngươi hãy khoan nhập Niết bàn, nếu nói như vậy là còn khen hay thích thú sự luân hồi. Bọn tà kiến sẽ nhân cơ hội ấy mà chỉ trích. Vì vậy nên đức Thế Tôn dạy: Nầy Xá Lợi Phất, ngươi đi nhập diệt nơi nào?

- Bạch đức Thế Tôn, đệ tử sẽ nhập diệt tại nơi phòng sanh đệ tử ở nơi làng Nàlandagàma .

- Xá Lợi Phất, khi ngươi thấy thời giờ đã đến với ngươi, thì ngươi hãy tùy thờihành sự. Tất cả các sư đệ của ngươi chỉ còn gặp vị sư huynh như ngươi lần chót. Vậy ngươi nên thuyết pháp cho các sư đệ ngươi nghe rồi sẽ nhập diệt.

Ðại Ðức Xá Lợi Phất liền rõ ý định của đức Thế Tôn rằng: Ðức Thế Tôn muốn ta dùng thần thông rồi thuyết pháp sau, Ngài liền bay lên không trung độ cao bằng một cây thốt nốt rồi đáp xuống chỗ cũ đảnh lễ đức Thế Tôn một lạy, rồi Ngài lại bay lên cao hơn lần trước một cây thốt nốt kế lại đáp xuống đảnh lễ đức Thế Tôn, bay như vậy bảy lần mỗi lần cao thêm hơn một cây thốt nốt nghĩa là cao bảy cây thốt nốt. Khi ấy Ngài mới ngồi trên cỏ ấy thuyết pháp cho chư Tăng có cả tín đồ thành Thất La Phiệt đều nghe. Chư Tăngtín đồ đắc đạo quả rất nhiều. Thuyết xong Ngài đảnh lễ đức Thế Tôn lạy thứ tám và bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn, đệ tử đã vâng lời thực hành theo lời Ngài lần chót.

Ðức Phật nghĩ: Như Lai phải đưa Xá Lợi Phất một đoạn đường. Ngài liền đứng dậy đưa Ðại Ðức ra khỏi tư thất, đến trước tư thất Ðại Ðức liền đảnh lễ đức Thế Tôn bằng cách đi quanh Ngài mỗi hướng lạy một lạy, rồi bạch rằng: Lúc quá khứ đệ tửđảnh lễ dưới chân đức Thế Tônhồng danh là Anomadassì đến nay là một A-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp và có phát nguyện để gặp đức Chánh đẳng Chánh giác và là đại đệ tử Phật, hôm nay lời nguyện của đệ tử đã viên mãn. Kể từ khi đệ tử được gặp đức Thế Tôn khi mới thành đạo mà hôm nay là lần yết kiến cuối cùng, đệ tử không bao giờ trở lại gặp đức Thế Tôn nữa. Nói xong, Ngài liền đảnh lễ đức Thế Tôn xong đi lui ra cho đến khi khuất bóng đức Thế Tôn mới lạy thêm một lạy nữa và nói: Kể từ đây ra không còn sanh lại trong cảnh giới nào nữa, sự sanh tử luân hồi không còn làm gì ta được nữa. Khi ấy Ngài mới day mặt lại đi thẳng ra ngoài chùa.

Ðức Thế Tôn dạy chư Tỳ khưu đang hầu Ngài rằng: Các thầy nên đi đưa đại sư huynh của các thầy một đoạn đường lần chót nầy đi. Chư Tỳ khưu vâng lời theo đưa Ðại Ðức ra khỏi cổng chùa.

Ðại Ðức mới dạy rằng: Các thầy Tỳ khưu ơi, thôi các thầy hãy ngưng lại nơi đây. Ta chỉ xin các thầy nên nhớ rằng: Không nên dễ duôi mặc dầu là trong một sát na. Sau khi dạy xong chư Tỳ khưu trở lại. Ðại Ðức dẫn năm trăm vị Tỳ khưu là đệ tử của Ngài đi về làng Nàlandagàma .

Những tín đồ hay biết tin Ngài sẽ nhập diệt lấy làm thương Ngài nên than khóc và đồng cùng nhau đi tiễn đưa. Có người than: Khi xưa Ðại Ðức thường ghé qua nơi nầy để dạy bảo chúng ta cách tu hành, hôm nay Ngài ra đi không bao giờ trở lại. Có rất nhiều người chạy theo Ngài khóc lóc thật là bi thảm.

Ðại Ðức phải dừng chân lại dạy rằng: Các người ơi! Ta xin các người nên nhớ không nên dễ duôi, trong các pháp hành hằng thay đổi không bền vững, đem lại đau khổ, các người hãy xem ta đây mà làm gương rán lo tu hành.

Tín đồ nghe lời dạy bảo của Ngài liền trở về. Vì sự trở ngại bởi quần chúng theo đưa đón khóc than làm cho Ngài phải thuyết pháp khuyên dạy nên ngài mất bảy ngày mới tới làng Nàlandagàma.

Khi đến cổng làng Ngài ngồi dưới cội cây Nigrodha (cây Dừng) cũng gần nhà Ngài. Khi ấy có người cháu trai của Ngài tên là Uparevatta có chuyện đi ra ngoài làng nên khi đến cổng làng gặp Ngài. Ðại Ðức kêu cháu lại hỏi: Uparevatta, bà ngươi có nhà không?

- Bạch Ðại Ðức, bà cháu có ở nhà.

- Vậy ngươi hãy về bảo bà hay ta về và sửa soạn phòng khi bà mới sanh ta cho sạch sẽ, và năm trăm chỗ nghỉ cho năm trăm vị Tỳ khưu cho xong trong ngày hôm nay.

Uparevatta vâng lời về thưa mọi việc với bà rằng: Thưa bà, Sư bá của cháu đã về đến.

- Sư bá của ngươi hiện giờ ở đâu?

- Thưa bà, Sư bá của cháu đang ở ngoài cổng làng.

- Sư bá của ngươi về một mình sao?

- Thưa bà, về với năm trăm vị Tỳ khưu.

- Cháu có biết tại sao chư Tỳ khưu lại về với bác cháu nhiều vậy không?

- Thưa bà cháu không biết, chỉ biết là phải dọn chỗ cho quí Ngài và Sư bá thôi.

Bà Sàrì nghĩ: Con ta muốn trở lại chỗ mới sanh đây chắc là vì con ta xuất gia khi còn trẻ tuổi, giờ đây chắc đã chán với sự tu hành muốn hoàn tục để hưởng an nhàn lúc tuổi già.

Rồi bà dạy người nhà phải sửa sang chỗ ở cho năm trăm vị Ðại Ðức gấp và chỗ của Ngài Xá Lợi Phất tự bà coi dọn dẹp trang hoàng đốt đèn sáng trưng, rồi bà gọi Uparevatta đến bảo đi thỉnh Ðại Ðức vào.

Ðại Ðức và chư Tăng vào nhà. Chư Tăng ngự nơi nhà ngoài, còn Ðại Ðức vào nơi phòng khi thân mẫu Ngài mới hạ sanh Ngài. Bắt đầu vừa tối thì bịnh kiết lỵ phát sanh, bình dùng đi tiêu phải thay liền liền. Bà Sàri ngồi ở cửa phòng bà gần phòng Ngài Ðại Ðức.

Trong khi ấy Tứ đại Thiên Vương biết rằng: Ngài Ðại Ðức Xá Lợi Phất sẽ nhập diệt và đang lâm trọng bịnh tại phòng sanh của Ngài nơi làng Nàlandagàma. Bốn vị đồng nghĩ: Chúng ta nên đến làm lễ Ngài lần chót. Tứ đại Thiên Vương liền hiện đến nơi phòng Ngài làm cho hào quang chiếu sáng. Tứ đại Thiên Vương đảnh lễ Ngài và vấn an.

Ðại Ðức hỏi: Ai đến vấn an ta đây? Ngài biết nhưng hỏi để thân mẫu Ngài được nghe và được thấy.

- Bạch Ðại Ðức chúng tôiTứ đại Thiên Vương.

- Tứ đại Thiên Vương đến có chuyện chi chăng?

- Bạch Ngài chẳng có chuyện chi hết, chúng tôi đến đây để vấn an Ngài, và để cầu Ngài sai khiến.

- Thiện thay, ta đã có người hầu giúp đỡ rồi, không phiền đến quí vị. Vậy quí vị hãy trở về ngôi vị đi.

Tứ đại Thiên Vương vấn an xong liền trở về ngôi vị.

Khi Tứ đại Thiên Vương vừa đi xong có Thiên Vương Ðế Thích là vị Thiên Vương cõi trời Ðạo Lợi đến vấn an, hào quang của Ngài còn hơn bốn vị trước. Khi Ðế Thích ra về thì các vị Thiên Vương khác tiếp tục đến hầu Ngài là Thiên Vương cõi Dạ Ma, cõi Ðẩu Suất, cõi Tha Hóa và cõi Tha Hóa Tự Tại đến vấn an. Ðến cả vị Phạm Thiên cõi Ðại Phạm cũng đến vấn an Ngài. Ðại Ðức cũng tuần tự hỏi từng vị như Ngài đã hỏi Tứ đại Thiên Vương vậy.

Chỉ có thân mẫu Ngài là bà Sàrì thấy chư Thiên lần lượt hết vị nầy đến vị khác, vị nào cũng hào quang sáng ngời rực rỡ đến vấn an Ngài Ðại Ðức, bà nghĩ: Vậy các vị vừa đến đây là ai? Mà cứ tiếp tục hết vị nầy đến vị khác vào nơi giường bệnh vấn an con ta, vị nào cũng hào quang chiếu ngời rực rỡ. Bà liền đến hỏi Ðại Ðức Chunda là vị hầu Ðại Ðức Xá Lợi Phất về bịnh tình của Ðại Ðức Xá Lợi Phất, bà có nhã ý muốn vào thăm Ðại Ðức. Ngài Chunda cho bà biết bịnh tình và vào bạch hỏi coi Ðại Ðức có bằng lòng cho bà vào hầu chăng. Ðại Ðức Xá Lợi Phất bằng lòng cho bà vào.

Khi vào đến nơi bà liền hỏi: Nầy con, vị mà vào vấn an con trước nhất là ai vậy? Tên gì?

- Bà thí chủ, bốn vị đến trước nhất ấy là Tứ đại Thiên Vương.

- Vậy con còn lớn hơn Tứ đại Thiên Vương sao?

- Bà đại thí chủ ơi, Tứ đại Thiên Vương ấy cũng ví như người thiện nam thường trực ở chùa. Kể từ ngày đức đại Bồ Tát giáng sanh vào lòng Phật mẫu trong kiếp chót thì Tứ đại Thiên Vương phải cầm gươm đứng hầu bên long sàng hay là nơi nào mà Phật mẫu ngự, nghĩa là bốn vị ấy ví như quan Bảo giá.

- Kế đó vị nào đến vấn an con?

- Ðó là vị Thiên Vương cõi trời Ðạo Lợi tên là Thiên Nhãn hay cũng gọi là Ðế Thích, vị ấy không khác nào vị Sa di theo hầu ôm bát hầu Phật khi Ngài từ cõi trời Ðạo Lợi xuống.

- Con nầy, còn vị nào đến sau cùng hết, hào quang sáng hơn các vị trước?

- Khi đức đại Bồ Tát vừa mới sanh tại vườn Lumbini vị Phạm Thiên nầy đem lưới thần đến rước Ngài.

Bà Sàrì nghe vậy nghĩ: Chỉ là oai đức của con ta mà còn như vầy, thì oai đức của đấng Ðại Từ Bi là thầy của con ta thì còn cao quí đến độ nào nữa. Bà nghĩ vậy làm cho tâm trong sạch phát sanh hỉ lạc đồng thời cũng phát sanh.

Ðại Ðức biết rõ lòng bà bằng tuệ giác của Ngài, Ngài biết rằng: Ðây là dịp may để Ngài thuyết pháp tế độ. Ngài liền hỏi: Nầy bà đại thí chủ, bà nghĩ sao?

Bà liền trả lời một cách không do dự theo như ý nghĩ của bà.

Ðại Ðức nhân cơ hội ấy Ngài dạy: Bà đại thí chủ, trong khi đức Bổn Sư của bần đạo vừa sanh, khi xuất gia, lúc thành đạo đến ngày Chuyển pháp luân thì tất cả chư Thiên trong thế giới Sa bà và cả thế giới Sa bà đều rung động, nhân vật trong tam giới nầy không còn có một ai sánh bằng với Ngài, vì Ngài có Giới, Ðịnh, Huệ tuyệt đối cao thâm và trong sạch, Ngài có Giải thoátGiải thoát Tri kiến mà người trong tam giới không ai có được. Kế đó Ðại Ðức giải về mười hồng danh của đức Thế Tôn từ hồng danh Ứng Cúng đến Thế Tôn.

Sau khi dứt thời pháp bà Sàrì đắc quả Tu-đà-hườn, bà liền nói: Nầy Upatissa con ơi, tại sao trước kia con không cho mẹ nếm hương vị giải thoát để đến hôm nay.

Ngài Ðại Ðức nghĩ: Ta đã cho mẹ ta hưởng Thánh quả. Ðây tạm gọi là trả được công ơn bà sanh dưỡng ta. Ngài liền nói: Bà đại thí chủ xin bà vui lòng lui ra khỏi nơi nầy. Ngài lại gọi Ðại Ðức Chunda đến và hỏi rằng: Ðã đến canh mấy rồi?

- Bạch sư huynh đã gần sáng rồi.

Ðại Ðức dạy hãy hội chư Tăng lại cho đủ. Khi chư Tăng đến đông đủ, Ngài dạy Ðại Ðức Chunda đỡ Ngài dậy. Khi ngồi dậy xong, Ðại Ðức dạy: Hỡi các vị, các vị cùng với ta sum hợp đã bốn mươi bốn hạ rồi; điều nào mà ta đã hành động do thân khẩu ý ta bất tịnh phạm vào các vị, xin quí vị vui lòng tha lỗi ấy cho ta.

Chư Ðại Ðức bạch: Bạch Ðại Ðức, chúng tôi theo hầu Ðại Ðức như bóng theo hình từ bấy lâu nay, Ngài không có làm một điều gì làm cho chúng tôi buồn phiền mặc dầu rất ít. Nếu chúng tôitội lỗi nào vì vô ý hay dễ duôi đối với Ðại Ðức, xin Ðại Ðức từ bi tha thứ.

Vừa rạng đông Ðại Ðức Xá Lợi Phất nhập Niết bàn. Ngài nhập Niết bàn nhằm tháng mười Âm lịch. Tất cả chư Thiên trong Sa bà thế giới và chư Phạm Thiên đều hội đến nơi Ngài nhập Niết bàn để phụ làm công quả là làm lễ hỏa táng Ngài. Cuộc lễ thật là vô cùng trọng thể.

Sau khi hỏa táng xong, Ðại Ðức Chunda gom lấy Xá lợi của Ngài gói bằng vải trắng mang cả y bátXá lợi của Ngài về chùa Kỳ Viên. Trước hết vào hầu Ðại Ðức Ananda xin Ðại Ðức Ananda đưa vào hầu Phật.

Khi ấy, đức Thế Tôn cầm lấy Xá lợi của Ðại Ðức Xá Lợi Phất lên ca tụng công đức của Ðại Ðức bằng năm trăm câu kệ ngôn. Xong Ngài liền dạy lập tháp thờ Xá lợi của Ngài Ðại Ðức tại Kỳ Viên tịnh xá.

Xong việc của Ðại Ðức Xá Lợi Phất, đức Thế Tôn dạy Ðại Ðức Ananda chuẩn bị đi đến Vương Xá thành. Ðại Ðức Ananda tuyên ngôn cho chư Tăng biết rằng: Ðức Thế Tôn sắp ngự đi đến thành Vương Xá. Khi đến Vương Xá thành đức Thế Tôn ngự tại Trúc Lâm tịnh xá.

Lúc ấy, Ðại Ðức Mục Kiền Liên đang ở một nơi thanh tịnh là Kàlasilà nơi biên thùy của xứ Ma Kiệt Ðà. Bọn ngoại đạo hội nhau lại định kế giết Ngài, vì Ngài là tay trái của đức Thế Tôn, khi Ngài đến nơi nào người ngoại đạo đều sùng bái Ngài và trở nên đệ tử Phật, vì vậy nên bọn ngoại đạo mất rất nhiều nguồn lợi lớn, và cũng bởi nguyên nhân ấy mà bọn ngoại đạo căm hờn oán ghét Ngài rất nặng. Bọn chúng thuê bọn côn đồ giết Ðại Ðức.

Bọn côn đồ lãnh tiền liền đến nơi tư thất Ngài ở rừng sâu định giết Ngài, Ngài biết trước nên dùng thần thông đi ra theo mé tranh, lần thứ nhì cũng vậy, đến lần thứ ba Ðại Ðức lấy làm lạ tại sao bọn côn đồ lại cố ý giết hại Ngài, Ngài dùng trí tuệ xem thấy đó là quả kiếp trước của Ngài đã tạo, nên kiếp nầy Ngài phải trả, nên chi Ngài không lẫn tránh nữa. Bọn côn đồ ấy vào bắt Ngài đánh đến chết, và chúng biết rằng: Ngài có nhiều thần thông nên đánh Ngài xương nhừ như bột xong hốt đem bỏ rất xa. Rồi bọn chúng mới đi vì chúng tin chắc rằng: Ngài không bao giờ sống lại được.

Sau khi bọn chúng đi Ngài liền dùng thần thông gom lại những xương vụn thành ra một vị Ðại Ðức như thường không rách một chéo y. Rồi Ngài nghĩ rằng: Ta đã đến ngày nhập diệt rồi, vậy ta đến xin phép đức Thế Tôn để nhập Niết Bàn. Khi đến nơi đảnh lễ đức Thế Tôn xong bạch rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn, đệ tử đến đây đảnh lễ Ngài và xin Ngài cho phép đệ tử nhập Niết bàn.

- Nầy Mục Kiền Liên ngươi nhập Niết bàn sao?

- Bạch đức Thế Tôn, đệ tử nhập Niết bàn.

- Ngươi nhập diệt nơi nào?

- Bạch đức Thế Tôn, đệ tử nhập diệt ở Kàlasilà .

- Nầy Mục Kiền Liên, vậy ngươi nên thuyết pháp cho Như Lai nghe lần chót. Vì Như Lai sẽ không còn gặp người đệ tử như ngươi nữa.

Ðại Ðức liền vâng lời, Ngài làm như Ðại Ðức Xá Lợi Phất. Khi Ngài thuyết pháp xong đảnh lễ đức Thế Tôn rồi trở về nơi Ngài bị đánh và nhập Niết Bàn nơi ấy.

Ðức Thế Tôn ngự đến nơi ấy làm chủ tọa trong cuộc lễ hỏa táng Ngài Ðại Ðức, có chư Thiên trong Sa bà thế giới đến cúng dường, trong khi đang làm lễ hỏa tánghoa thơm từ trên hư không rơi xuống như trận mưa hoa. Tín đồ biết đức Thế Tôn có ngự đến nơi ấy nên hội lại rất đông làm cuộc lễ càng thêm long trọng. Cuộc lễ ấy cử hành bảy ngày mưa hoa không ngớt trong vòng một do tuần. Xá lợi của Ðại Ðức Mục Kiền Liên cũng được lập tháp thờ gần cửa Kỳ Viên tịnh xá.

Chư Tỳ khưu hội nhau lại nói rằng: Vì Ðại Ðức Xá Lợi Phất nhập diệt nơi quá xa nên không được đức Thế Tôn dự vào và không được Ngài ban bố sự cúng dường vĩ đại như vậy. Còn Ðức Mục Kiền Liên được hưởng ân huệ như vầy vì Ngài nhập diệt gần đức Thế Tôn ngự đến nên có mưa hoa lạ và chư Thiên tựu lại rất đông.

Ðức Thế Tôn ngự đến hỏi biết chư Tăng đang bàn về hai vụ hỏa táng của hai vị đại đệ tử. Ðức Thế Tôn mới dạy rằng: Không phải mới kiếp nầy Mục Kiền Liên được sự cúng dường do có mặt Như Lai, mà trong kiếp quá khứ cũng có được sự cúng dường trọng thể do nơi Như Lai đến dự.

Ðại Ðức Xá Lợi Phất nhập diệt tháng mười, Ðại Ðức Mục Kiền Liên nhập diệt tháng chạp. Hai vị đại đệ tử tay phải và tay trái phải nhập diệt trước Phật là lẽ thường của chư Phật quá khứ, hiện tạivị lai. Ðức Thế Tôn chỉ còn lại một mình Ðại Ðức Ananda theo hầu thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14848)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17775)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18206)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13171)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21129)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32550)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15295)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12339)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27470)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12128)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34912)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17728)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11803)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12638)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14563)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32450)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19451)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14080)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15310)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14134)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11950)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53138)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11649)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13915)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13808)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20680)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14308)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13605)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34140)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16205)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14067)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14195)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13548)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15891)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13499)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22945)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27723)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13891)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24930)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13941)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31307)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13856)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15553)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14954)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant