Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ Nhì: Ðộ Yassakulaputta

09 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 7740)
Thiên Thứ Nhì: Ðộ Yassakulaputta

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT TỔ CỒ ĐÀM

Maha Thongkham Medhivongs

THIÊN THỨ NHÌ

ÐỘ YASSAKULAPUTTA

-ooOoo-

Trong khi đức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giã. Trong thành Bàrànasì có một ông Trưởng giả có một người con tên là YASSA. Ông xây cho con ông ba tòa lầu cao để ở trong ba mùa; trong các tòa lầu đều có đủ thú vui của Trưởng giả, sự hưởng hạnh phúc của cõi đời nầy Yassa không thiếu một chi, sánh như đức Thái tử Sĩ Ðạt Ta khi còn tại vì.

Ðêm nọ ông Yassa cảm thấy mệt không còn hứng thú trong việc vui chơi, nên ông cho mỹ nữ được ngủ sớm. Trong phòng ông chưng bày ngọc ngà châu báu, màu sáng của đèn làm cho chiếu hào quang xinh đẹp. Thật là cảnh thần tiên trong đời nầy vậy.

Sau khi nghỉ được một lúc ông liền tỉnh lại trong giữa đêm trường tĩnh mịch. Ông liền nhìn quanh phòng, trông thấy những mỹ nữ nằm ngủ quanh ấy như những tử thi sình, mùi hôi thối bốc ra lấy làm khó chịu, những cái xinh đẹp không còn có ở những mỹ nữ ấy nữa, càng nhìn càng ghê tởm; nhìn qua bàn ghế mền mùng châu ngọc cũng trở thành những vật không đẹp, ông cảm thấy tự mình đang lạc lõng ở trong bãi tha ma, nghe tiếng ngáy của mỹ nữ không khác nào tiếng những con thú rừng đang giành ăn những tử thi sình. Ông thấy chán nản với sự giàu sang và kinh sợ cảnh cô đơn giữa rừng thanh vắng hoang vu, càng ngắm càng sợ những tử thi kia. Ông chán nản với cảnh ấy bằng cảm tưởng thật là kinh khủng và ghê tởm. Ông mới có cảm tưởng rằng: Lẽ cố nhiên người còn trong vòng tại gia cư sĩ là người còn gần vòng tai hại đủ điều. Khi ấy ông mới xuống lầu ra đi. Nhưng ông cũng không biết đi đâu. Khi ấy chư Thiên trong gia đình ông mới mở cửa cho ông ra đi một cách êm đềm không ai hay biết rằng ông đã ra đi. Chư Thiên có ý hộ trì ông đi xuất gia được dễ dàng.

Ðồng thời ấy, đức Thế Tôn đang đi kinh hành trông thấy ông Yassa từ xa đi đến, nên Ngài lại đến ngự trên pháp tọa.

Còn ông Yassa lần lần đi đến nhưng ông vẫn lẩm bẩm nói rằng: Nơi đây thật là nơi bẩn chật.

Ðức Thế Tôn mới bảo rằng: Nầy Yassa, nơi đây là nơi không có sự bẩn chật, tai hại, ngươi hãy đến và ngồi nơi đây, Như Lai sẽ thuyết pháp cho người nghe.

Ông Yassa nghe qua lời của đức Phật như thức tỉnh trong cơn mê. Tiếng nói của đức Thế Tôn đã êm dịu nhẹ nhàng mà đầy từ ái không khác nào tiếng mẹ ru con. Ông đã được nghe rất nhiều tiếng thanh tao êm dịu, nhưng không từng có một tiếng nào làm ông rung động cảm mến như tiếng của đức Thế Tôn. Ông lật đật cởi đôi giày bằng vàng ra bỏ nơi ấy và đi ngay vào nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong ngồi nơi nên ngồi.

Ðức Thế Tôn mới thuyết pháp gọi là ANUPUBBIKATHÀ nghĩa là pháp đi theo tuần tự có năm điều là:

1) DÀNAKATHA. Dạy về sự bố thí.

2) SÌLA LAKATHA. Dạy về sự trì giới.

3) SAGGAKATHA. Nói về sự an vui trong cõi thiên đàng.

4) KAMADINAVAKATHA. Nói về tội của ngũ uẩn. Là dạy cho thấy ngũ trần là nhân đem sự khổ đến chúng sanh, và cũng vì ngũ trần ấy nên chúng sanh bị luân hồi mãi.

5) NEKKHAMASAMSAKATHA. Dạy về quả báo của sự thoát ly gia đình. Nghĩa là nói đến quả báo của người không có gia đình chỉ biết lo tu hành mau giải thoát.

Sau bài nầy đức Thế Tôn mới dạy pháp Tứ Diệu Ðế. Ông Yassa đắc được Pháp nhãn nghĩa là trông thấy rõ các pháp hay là đã vào hàng Dự lưu nghĩa là đắc Tu-đà-hườn quả.

Nói về mẹ ông Yassa thường thường đến lầu ông mỗi buổi sáng để thăm con, khi bà đến thấy cửa lầu mở mà không thấy con, bà lấy làm kinh sợ chạy đi cho chồng hay. Ông liền cho người nhà chia nhau đi tìm ông Yassa, còn ông thì ông đi thẳng đến vườn Lộc Giã. Khi đến nơi ông trông thấy đôi giày làm bằng vàng của con ông, ông liền đi thẳng vào nơi Phật ngự.

Ðức Thế Tôn thấy cha ông Yassa đi đến, mới nghĩ rằng: Như Lai phải dùng thần thông không cho ông Trưởng giả thấy con đang ngồi kế bên ta. Ngài liền dùng thần không cho ông Trưởng giả thấy con chỉ thấy có một mình đức Thế Tôn thôi. Khi ấy ông mới đến gần đức Phật và hỏi đức Phật có trông thấy một người thanh niên đi qua ngang đây không?

Ðức Thế Tôn dạy rằng: Nầy ông Trưởng giả, ông hãy ngồi xuống đây, rồi ông sẽ gặp lại con ông. Ông Trưởng giả nghe thế làm mừng và ngồi xuống hầu Phật.

Ðức Thế Tôn thuyết bài Pháp như Ngài đã thuyết cho ông Yassa nghe. Ông Trưởng giả đắc Tu-đà-hườn quả, ông mới bạch Phật rằng: Bạch đức Thế tôn tôi xin qui y Phật, qui y Pháp và qui y Tăng. Xin đức Thế Tôn nhận biết cho tôi là người thiện nam. Từ đây tôi nguyện xin làm đệ tử Tam bảo cho đến trọn đời. Ðây là vị thiện nam thọ Tam qui đầu tiên trong Phật giáo.

Riêng đức Yassa cũng nghe pháp như cha ông, ông lại đắc được A-la-hán quả tuệ. Ðức Thế Tôn biết rằng: Ông Yassa đã đắc A-la-hán quả rồi, tâm không còn rung động về pháp thế gian nữa, ngũ trần đối với ông như nước bọt đã nhổ ra không hề liếm lại được. Khi ấy đức Thế Tôn thâu thần thông lại để ông Trưởng giả trông thấy con ông. Khi ông Trưởng giả thấy Yassa, ông liền bảo rằng: Con ơi, hiện giờ mẹ con đang nóng lòng chờ đợi con và đang than khóc, con hãy đem lại cho mẹ con đời sống (ý nói nếu con không về thì mẹ con tức mà chết).

Ðức Thế Tôn mới dạy rằng: Nầy ông Trưởng giả, ông nghĩ sao khi mà Yassa đã đắc được A-la-hán quả rồi, trở nên người diệt tận phiền não, là bực không còn luyến tiếc trần tục. Vậy người như thế còn trở lại cuộc đời thế tục không?

- Bạch đức Thế Tôn, Thánh quả là vật tối cao tuyệt mà con của đệ tử đã đắc được thật cao quí vô cùng. Vậy đệ tử xin thỉnh đức Thế Tôn đến thọ thực ở nhà đệ tử có Yassa và chư Tăng theo hầu, hầu đem lại hạnh phúc lâu dài cho chúng đệ tử.

Ðức Thế Tôn nhận lời bằng cách lặng thinh, ông Trưởng giả biết nên đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi ra về. Sau khi ông Trưởng giả ra về, ông Yassa xin Phật xuất gia. Ðức Thế Tôn cho xuất gia bằng cách EHI BHIKKHU ngươi hãy trở nên vị Tỳ khưu. Râu tóc của ông rụng và đồ mặc trong mình trở nên bộ cà sa vàng và bát. Phương pháp nầy chỉ có vị Ðại Ðức nào xuất gia với Phật và đã đắc quả Thánh. Sau nầy chúng sanh ít duyên lành nên xuất gia với chư Tăng có thầy Tế độ và thầy Tiếp dẫn có hai mươi vị Tỳ khưu chứng minh và phải có tuyên ngôn bốn lần.

Sau khi xuất gia xong, đức Thế Tôn dẫn Ngài Yassa. Mẹ và bà vợ hai của ông Yassa ra hầu. Ðức Thế Tôn thuyết pháp cho hai người nghe, cả hai đều đắc quả Tu-đà-hườn, cũng xin thọ Tam quingũ giới.

Trong khi ấy, trong thế gian nầy có một Thiện nam thọ Tam qui trước nhất là cha Ngài Yassa, còn hai người Tín nữ thọ Tam qui đầu tiên là mẹ và vợ ông Yassa. Thiện namTín nữ nầy đều là hàng Dự lưu nghĩa là Tu-đà-hườn quả. Vì cha và mẹ ông Yassa đã đắc quả Thánh rồi nên rất bằng lòng thấy ngài Yassa là bực Tỳ khưu.

Trong khi ấy có bốn người bạn của ngài Yassa cũng là con của Trưởng giả tên là: 1) VIMALA. 2) SUBAHU. 3) PUNNASI. 4) GAVAMPATI được tin rằng: Ngài Yassa đã xuất gia mới rủ nhau đến hầu và thăm. Ngài Yassa mới dẫn bốn ông ấy đến hầu đức Thế Tônyêu cầu đức Thế Tôn tiếp độ bốn người bạn.

Ðức Thế Tôn mới thuyết pháp cho bốn vị ấy nghe như Ngài đã thuyết cho Ngài Yassa nghe. Bốn vị ấy đều đắc quả Tu-đà-hườn cùng một lúc, rồi xin xuất gia. Sau lại đức Thế Tôn Tôn thuyết bài kinh gọi là OVÀDÀNUSÀSANA cả bốn vị đều đắc A-la-hán quả.

Trong khi ấy trong thế gian nầy có mười một vị Thánh nhơn. Một vị Chánh đẳng Chánh giác là mười vị A-la-hán là năm vị Kiều Tr?n Như và Ngài Yassa cùng bốn người bạn.

Khi ấy có năm mươi người bạn của Ngài Yassa cũng con của các vị Trưởng giả ở ngoại ô, nghe tin rằng: Yassa xuất gia nên rủ nhau đến hầu Ngài. Ngài Yassa liền dẫn năm mươi người bạn đến hầu Phật. Sau khi nghe pháp xong xin xuất gia luôn. Sau năm mươi vị cũng đắc A-la-hán quả. Khi ấy trong thế gian nầy có được sáu mươi mốt vị Thánh nhơn.

Ðức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giã đến rằm tháng mười, Ngài gọi sáu mươi vị đại A-la-hán đến và dạy rằng: Nầy chư Tăng, nay các vị đã đắc Tuệ giác, có Tứ chánh cầngiải thoát hoàn toàn; các Thánh pháp mà chư Thánh nhơn trong lúc quá khứvị lai nhứt là đức Chánh đẳng Chánh giác đã đắc và sẽ đắc đối với quí vị đã đắc rồi.

Liền trong khi ấy Ma vương hiện ra trước mặt Phật và ngâm bài kệ như vầy. BHANDHOSI SABBAPÀSEHI v.v.. Nghĩa là: Thưa ông đại Sa môn; ông đã sa vào cạm bẫy của tôi, những cạm bẫy ấy làm bằng pháp mầu của Thiên vương, và cũng làm bằng tất cả các phương pháp của người trần gian, nhưng Ngài đã phá hỏng những cạm bẫy ấy mà giải thoát khỏi uy quyền của tôi.

Ðức Thế Tôn liền đáp bằng lời kệ rằng: MUTTOHAM SABBAPÀSEHI v.v.. Nghĩa là: Hỡi nầy Ma vương hung ác, tất cả cạm bẫy của ngươi bằng pháp mầu cũng như bằng các phương pháp nào trong thế gian nầy, Như Lai đã hoàn toàn giải thoát rồi.

Ma vương lại nói câu kệ: ANTALIKKHE CAROPOSO. Người đi trong hư không hay đi trong thế gian nầy, những chỗ ấy đều ở trong cạm bẫy của tôi. Vì vậy ông Sa môn còn ở trong thế gian nầy cũng chưa chắc thoát khỏi tôi.

Ðức Thế Tôn liền dạy rằng: RÙPÀ SADDÀ GANGHA RASÀ v.v.. Ngũ trần là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc là vật mà chúng sanh ưa chuộng mến yêu. Như Lai không còn luyến tiếc nữa. Như Lai đã hoàn toàn giải thoát khỏi những cạm bẫy của người. Nầy Ma vương tâm đầy tội ác, ngươi hãy rời khỏi nơi đây cho mau.

Ma vương biết rằng: Không thế nào thắng hay ít nhứt là làm cho đức Thế Tôn rung động. Nên buồn rầu thất vọng bỏ ra đi.

Ngày mười sáu tháng mười Âm lịch đức Thế Tôn cho nhóm sáu mươi vị Thánh Tăng, và Ngài truyền cho mỗi vị đi mỗi nơi nào thích hợp với ý mình để truyền đạo.

PHẬT NGÔN

Naham samissami pamocanàya
Kathamkathim dhotaka Kinci loke
Dhammanca settham abhajànamàno
Evam tvam oghamiman tareti.

Nầy Dhotaka, Như Lai không thể cứu độ người có sự nghi ngờ trong thế gian cho giải thoát được. Nhưng các vị thông thấu các pháp cao quí mới giải thoát được. (Tạng kinh bộ Khuddakanikaya, đoạn Mahàniddesa).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14869)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17794)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18209)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14988)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13176)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21157)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32567)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15311)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12346)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12832)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27508)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12135)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34934)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17744)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11821)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12646)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14569)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32466)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19460)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12969)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14084)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14267)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15313)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14140)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14134)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11957)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53165)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11660)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13926)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13815)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20693)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14312)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13432)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13610)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34168)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16210)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14201)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13563)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15905)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13506)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22961)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27741)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13904)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24958)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13948)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31318)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13863)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15561)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14971)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant