Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 1: Phật giáo nguyên thỉ

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9350)
Tiết 1: Phật giáo nguyên thỉ

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG III

NGUYÊN THỈ PHẬT GIÁOTAM TẠNG KINH ÐIỂN

TIẾT I - II: PHẬT GIÁO NGUYÊN THỈ

Cách Phân Kỳ của Lịch Sử Phật Giáo

Sau khi Phật nhập Niết bàn, Ngài trở thành nhân vật lịch sử. Ðối với cách phân kỳ của lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ, các học giả cận đại vẫn chưa đồng ýchấp nhận lấy “thuyết” nào làm chuẩn mực, hiện tại xin đơn cử năm thuyết để tham khảo.

I. THUYẾT TAM KỲ CỦA ÐẠI SƯ THÁI HƯ - NGƯỜI TRUNG HOA.

a) Thời sơ kỳ, năm trăm năm là thời “Tiểu chương Ðại ẩn” (Tiểu thừa sáng lộ, Ðại thừa tiềm ẩn).

b) Thời kỳ năm trăm năm thứ hai là thời “Ðại chủ Tiểu tùng” (Ðại thừa là chủ yếu, Tiểu thừa nương theo).

c) Thời kỳ năm trăm năm thứ ba là thời “Mật chủ Hiển tùng” (Mật giáo là chủ yếu, Hiển giáo nương theo)(1). Nhưng, lúc về già đại sư Thái Hư cải đổi cách phân kỳ trên thành; Tiểu hành Ðại ẩn, Ðại chủ Tiểu tùng, Ðại hành Tiểu ẩn, Mật chủ Hiển cùng(2). Cách phân kỳ này tuy có giá trị, nhưng quá sơ lược.

II. CŨNG CÓ THUYẾT PHÂN LÀM BA KỲ.

a) Từ đức Thích Tôn đến Bồ tát Long Thọthời kỳ Phật giáo phát triển một cách căn bản.

b) Từ Bồ tát Long Thọ đến đại luận sư Pháp Xứngthời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Ðại thừa.

c) Từ Pháp Xứng đến thời Hồi giáo xâm nhập Ấn Ðộ, khoảng năm trăm năm sau đó là thời kỳ Phật giáo suy đồi. Cách phân kỳ giáo pháp theo lối này, căn bản chỉ khái quát Phật giáo từ khi Phật còn tại thế là thời Phật giáo nguyên thỉ cho đến lấy thời Bộ phái Phật giáo sau Phật nhập diệt ước khoảng một trăm năm. Cách phân kỳ này còn ẩn tàng sự lẫn lộn.

III. CÓ MỘT THUYẾT TAM PHÂN KỲ KHÁC.

a) Từ đức Thích Tôn đến Bồ tát Long Thọthời kỳ Phật giáo phát triển một cách căn bản.

b) Từ Bồ tát Long Thọ đến đại luận sư Pháp Xứng, là thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Ðại thừa.

c) Từ Pháp Xứng đến thời Hồi giáo xâm nhập Ấn Ðộ, khoảng trăm năm sau đó là thời kỳ Phật giáo suy đồi. Cách phân kỳ giáo pháp theo lối này, căn bản chỉ khái quát Phật giáo từ khi Phật còn tại thế là thời Phật giáo nguyên thỉ cho đến lấy thời Bộ phái Phật giáo sau Phật nhập diệt ước khoảng một trăm năm. Cách phân kỳ này còn ẩn tàng sự lẫn lộn.

III. CÓ MỘT THUYẾT TAM PHÂN KỲ KHÁC.

a) Từ đức Thích Tôn thành đạo cho đến một trăm năm sau khi Phật nhập diệtthời kỳ Phật giáo Nguyên thỉ.

b) Từ sau Phật nhập diệt, ước khoảng một trăm năm, đến ngài Long Thọthời kỳ Tiểu thừa Phật giáo phát triển.

c) Từ Long thọ cho đến đệ nhị Pháp Xứng là thời kỳ Ðại thừa Phật giáo hưng thịnh. Thuyết này với thuyết của Kimura Taiken, và thuyết của Vũ Tỉnh Bá Thọ đại loại giống nhau.

IV. LONG SƠN CHƯƠNG CHÂN V.V... ÐƯA RA THUYẾT BỐN KỲ.

a) Thời kỳ Phật giáo nguyên thỉ.

b) Thời đại Bộ phái Phật giáo.

c) Thời đại Phật giáo Ðại thừa.

d) Thời đại Mật giáo.

Thuyết này lấy hậu kỳ của Phật giáo Ðại thừa thiết đặt thành thời kỳ Mật giáo, và lấy thời đại Bộ phái Phật giáo thay cho thời Tiểu thừa Phật giáo. Về sau Phật giáo nguyên thỉ làm cơ sở chung cho sự phát triển của Phật giáo Tiểu thừa, và các phái Ðại thừa. Do đó, thuyết này đáng gọi là có kiến giải hay.

V. THUYẾT NĂM KỲ CỦA PHÁP SƯ ẤN THUẬN.

a) Thời đại đức Phật lấy “Thanh văn làm gốc mà điểm đồng qui là giải thoát.

b) Lấy bốn trăm năm sau Phật diệt độ làm “Sự xẻ dòng của Thanh văn theo khuynh hướng Bồ tát”.

c) Sau Phật nhập diệt, từ bốn thế kỷ đến bảy thế kỷ là thời lấy “Bồ tát làm gốc, có sự pha trộn giữa Ðại thừa và Tiểu thừa.

d) Sau Phật nhập diệt bảy trăm năm đến một nghìn năm, là thời “Bồ tát phân lưu về khuynh hướng Như Lai”.

e) Sau Phật nhập diệt một nghìn năm cho đến mãi về sau lấy “Như Lai làm gốc của thanh tịnh Phật nhất thể”. Ðây là dựa vào diễn biến phát triển tư tưởnggiáo đoàn để khảo sát. Quan điểm này về đại thể tương đồng với quan điểm của đại sư Thái Hư, nhưng phân tích chân xác hơn.

Duy có điều cách phân kỳ tư tưởng này của pháp sư Ấn Thuận có tính độc lập xin đọc tác phẩm “Phật Giáo Ấn Ðộ” của ở chương một - trang 4 đến trang 8.

Bộ sách này trình bày cách phân kỳ của các nhà mà không có sự “lấy bỏ” nhà nào làm chuẩn, chỉ thuần lược thuật có tính tham khảo: vì vậy vấn đề chính là chương mục, chứ không hẳn là sự chia cắt.

- Giáo Lý Phật Giáo Nguyên Thỉ.

Nói đến Phật giáo nguyên thỉ là nói về “ngôn hành” của đức Phật khi Ngài còn tại thế, qua đó đức Phật đã tự thân ấn chứng về ngôn hành của các đệ tử Ngài. Những điều vừa nêu chỉ tìm thấy trong kinh A Hàm, và trong Luật bộ; nhưng kinh A Hàm so với Luật bộ, thì kinh A Hàm qua lần kết tập thứ nhất, thứ nhì là đã có sự thêm bớt. Thậm chí có thể nói nội dung của kinh A Hàm hiện tại không hoàn toàn còn giữ nguyên diện mạo nguyên thỉ của nó. Nhưng nếu không căn cứ vào những ghi chép trong kinh A Hàm thì không dựa vào đâu để tìm ra diện mạo đích thực của Phật giáo nguyên thỉ.

Giáo lý của Phật giáo nguyên thỉ quả thực là cực kỳ đơn giản. Ðức Phật không bao giờ huyễn đàm về những gì mang tính “hình nhi thượng” (siêu hình, hoang đường, không tưởng), hoặc đàm thuyết về những kinh nghiệm lý tính. Ngài dạy con người đạo lý giải thoát một cách thực tiễn. Ngay thời bấy giờ, các đệ tử thỉnh cầu đức Phật giảng cho họ biết về cảnh giới Niết bàn, và Ngài giữ thái độ mặc nhiên không đáp. Bởi theo Ngài, người chưa chứng đắc Niết bàn lại cùng họ nói về Niết bàncõi trời Tam Dạ Tam Thiên thì đó rõ ràng là chuyện nói nghe cho vui. Còn đối với người thực tế đã chứng đắc Niết bàn, thì có nói cũng chẳng giúp được tơ hào nào cả!

Ðức Phật là người loại bỏ tất cả mọi sự phiền tạp, và Ngài cũng là người cực kỳ khéo léo vận dụng thí dụ. Với chúng đệ tử, mỗi khi thuyết pháp đức Phật chỉ dạy những lời cần dạy, tuyệt nhiên không chút rườm lời.

Nội dung thuyết pháp được Ngài khai thị theo thứ lớp, và không vượt ra ngoài Tứ thánh đế, thập nhị nhân duyên, và Bát chánh đạo. Các đề mục này đã lược giới thiệu chương II.

Chẳng hạn khi bạn chưa tiếp cận đạo Phật, lúc ấy bạn chưa hiểu thế nào là tu học Phật pháp, thì việc đầu tiên Phật giáo sẽ nói cho bạn rõ là nên giữ cho “thân, khẩu, ý, mệnh trong sạch, không ô uế, thì túc mạng chung được sinh về cõi người”. Còn nếu bạn biết “huệ thí, nhân ái, làm lợi ích cho người với nhiều điều tốt lành” thì khi “thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi trời Thiên xứ”(3). Ðấy là trước hết dùng phép tu “nhân thiên” để giúp bạn hiểu nên như thế nào để được sinh cõi trời, cõi người, thứ đến giúp bạn tự điều chỉnh nhân cách sống sao cho mọi người kính trọng. Khi bạn đã qui y Tam Bảo và giữ năm giới cấm, lúc ấy căn lành của bạn sẽ trở nên lớn mạnh. Lúc ấy Phật giáo sẽ khai mở pháp môn giải thoát để bạn đi vào. Tu thiện pháp để sinh về cõi trời, cõi người là điều mà nhiều người tin theogiữ gìn, nhưng pháp môn giải thoát thì duy nhấtđức Phật là người có kinh nghiệm tự thân chứng ngộ. Ðiều khẩn yếu là đức Phật không những không dùng “quyền uy” thông dụng của Thần giáo để bảo rằng bạn là kẻ có tội, rồi bảo bạn hãy chuộc tội, rửa tội. Ðức Phật chỉ đưa ra phương pháp đơn giản, rõ ràng, rồi khuyên bạn y theo phương pháp thực tiễn đó mà tu tập thì sẽ đi đến kết quả tốt lành. Do đó, trong tinh thần của Phật giáo nguyên thỉ, tất cả mọi thần thoại và những điều mê tín hoàn toàn không có chỗ đứng.

- Thế Giới Quan của Phật Giáo Nguyên Thỉ

Chương trước có nói “nếu bỏ bản vị con người để chỉ thuần khảo sát thế giới, thì đó không phải là bản hoài của đức Phật”. Trong kinh Tiễn Dụ(4) Tôn giả Man Ðồng Tử (Màlunkya Dutta) hỏi đức Phật: “đời là thường hay đời là vô thường? Ðời là hữu chung (cùng tận) hay đời là vô chung? v.v... vị Tôn giả nêu lên cả thảy mười lăm vấn đề, tất cả đều là “bất quyết vấn đề”. Bằng một thái độ trong sáng phi thường, Phật dạy: “Ta thấy không cần thiết phải nói với ông về các vấn đề trên. Vì đó là pháp không đưa đến lợi ích gì, chúng không phải là gốc của phạm hạnh, chúng không đưa đến trí tuệ, không đưa đến giác ngộ, không đưa đến Niết bàn”. Sở dĩ vậy, là vì đức Phật thấy không cần thiết phải làm cho bạn hiểu đủ mọi thứ (bác loạn), mà Ngài thấy điều thiết yếu là giúp bạn phương pháp đạt đến giải thoát, chứng đắc Niết bàn, được vậy, tự nhiên bạn như người vén mây thấy được ánh sáng đích thực của nó.

Tuy là như thế, nhưng trong Phật điển vẫn có giới thiệu mối quan hệ về thế giới quan. Chẳng hạn kinh Thế Ký trong Trường A Hàm, từ quyển 18 đến quyển 22(5)có giới thiệu nhiều thứ loại tướng trạng của thế giới quốc độthế giới hữu tình.

Nhân đây, chúng ta không thể cho rằng đức Thích Tôn hoàn toàn giữ im lặng trước những vấn đề do tôn giả Man Ðồng Tử đưa ra. Nhưng chúng ta khảo sát nguồn gốc của vấn đề sẽ thấy rằng, đại thể vấn đề được phát hiện là do từ thế giới quan Vệ Ðà của Bà La Môn giáo và là sản vật của tư tưởng duy vật. Trong phương pháp giáo hóa của mình, đức Phật là người khéo vận dụng những tư tưởng duy vật, và thế giới quan Vệ Ðà của Bà La Môn giáo để làm thí dụ. Bởi khi hướng về quần chúng ngoại đạo để thuyết pháp, thì hay nhất là sử dụng những truyền thuyết của họ để dẫn giải họ đi vào Phật pháp. Do vậy, mà những quan niệm về thế giới của hàng ngoại đạo được đức Phật dẫn giải một cách đích xác, nhưng đó không phải là chủ đề chính trong việc thuyết pháp độ sinh của đức Phật. Ðiều hiển nhiênđức Phật hoàn toàn không đồng tình việc sử dụng truyền thuyết của ngoại đạo để công kích lại họ, và đức Phật cũng cho phép hàng đệ tử mình sử dụng phương thức này.

Ðến như kinh Thế Ký là cả một hệ thống tự thuật dài dằng dặc, và không nghi ngờ gì, điều đó xuất phát từ sự biên tập tỉ mỉ của các nhà kết tập. Bởi kinh Thế Ký được hình thành sau thời vua A Dục, vì là trong Trường Bộ Kinh của kinh tạng Ba Lị không có kinh này. Do đó, nội dung kinh Thế Ký không phải là phát minh của đức Phật, mà nó là “tài sản chung” của nền văn hóa Ấn Ðộ đương thời. Ðức Phật sở dĩ lợi dụng các quan niệm trên, đấy chẳng qua là sự gặp gỡ chứ hoàn toàn Ngài không biểu thị sự tiếp thụ. Thí dụ như các thần trong Vệ Ðà, đặc biệt là thần Phạm thiên. Ðức Phật phủ định thực thể của Phạm thiên, nhưng lại khéo sử dụng tín ngưỡng này. Nhưng sau khi Phật nhập diệt, các đệ tử Phật lại nối kết quan niệm về thực thể Phạm thiên để tiếp thụ. Ðó là việc dùng núi Tu Di làm trung tâm của thế giới quan. Ðiều này đứng về phương điện địa lý học và thiên văn học hiện đại, thực khó có cách nào để xác định. Tuy đấy là thông thuyết có từ rất sớm của địa lý và thiên văn học Ấn Ðộ - nó có trước khi đức Phật xuất hiện.

Là những đệ tử Phật, chúng ta nên chú tâm coi trọng cách ứng hóa của đức Phật làm trọng tâm, đó là hướng dẫn việc tu tập của mọi người, giúp họ giải thoát vô minh, bất tất phải sử dụng tất cả những ứng hóa của đức Phật, vì là trợ giúp con người tu chứng giải thoát chứ không phải ở những học thuyết của Vệ Ðà, của Lục sư ngoại đạo. Nếu chúng ta chỉ chú tâm phân tích, tìm hiểu các học thuyết trên mà không chuyên tâm tu tập, thì chẳng khác gì bỏ gốc chạy theo ngọn, và như thế là tự dẫn mình đến chỗ chết mà còn sợ bị mai táng. Quả là sai lầm!

- Tâm của chúng ta.

Ðức Phật thấy cần giúp con người giải thoát khỏi vô minh, chủ thể của con người là Tâm. Nhưng Tâm ấy không thể tự chủ, bởi đặc tính của Tâm là niệm niệm tương tục, hoạt động của Tâm là luôn luôn đổi khác (biến dị). Do đó cho nên Tâm là vô thường, đã là vô thường thì tìm đâu ra được chủ thể? Vì vậy, nên biết Tâm là vô ngã.

Biết rõ Tâm là vô thường, vô ngã để điều khiển Tâm không bị chao động trước những chuyển biến những đổi khác. Người làm chủ được Tâm mình, là người vượt lên trên phàm phu trở thành Thánh quả. Thực thì quả là khó.

Kỳ thực, đức Phật đặc biệt chú trọng đến việc khảo sát tâm phàm phu; dẫn dắt Tâm ấy vào đạo, bằng cách tu tập khiến Tâm nhiễm ô thành Tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnhTâm không dao động. Chỉ riêng có danh từ “Tâm”, nhưng lại có nhiều cách nói: Tâm nhiễm ô là Tâm biến dị không ngưng nghỉ, khảo sát tỉ mỉ trạng thái Tâm nhiễm ô cũng có nhiều dạng; theo tư liệu nguyên thỉ, Tâm nhiễm ô được phân loại và qui nạp thành mười hai khoảnh:

1. Ngũ cái(6): gồm có tham dục cái, sân nhuế cái, hôn trầm cái, kiến nghi, vô minh.

2. Thất kết (sử): gồm có dục tham, hữu tham, sân nhuế, mạn, kiến, nghi, vô minh.

3. Cửu kết (sử): lấy Thất kết làm cơ sở, lấy “hữu tham” đổi thành “thủ”, lại thêm vào tật, và xan.

4. Ngũ hạ phần kết: thân kiến, nghi giới cấm thủ, dục tham, sân.

5. Ngũ thượng phần kết: thân kiến, nghi giới cấm thủ, dục tham, sân.

6. Tứ bộc lưu: dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiến bộc lưu, vô minh bộc lưu.

7. Tứ lậu: dục lậu, hữu lậu, kiến lâu, vô minh lậu.

8. Tứ thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ.

9. Tứ hệ: tham hệ, sân hệ, giới cấm thủ hệ, thị chơn chấp hệ.

10. Tam cầu: dục cầu, hữu cầu, phạm hạnh cầu.

11. Thập lục tam cấu: bất pháp dục, sân, phẫn, hận, phú, não, tật, xan, siểm, cuống, can phức, báo phục tâm, mạn, quá mạn, kiêu, phóng dật.

12. Nhị thập nhất tâm uế: tà kiến, phi pháp dục, ố tham, tà pháp, tham, nhuế, tùy miên, trạo hối, nghi hoặc, sân triền, bất ngữ kết (phú tàng tội), xan, tật, khi cuống, du siểm, vô tàm, vô quí, mạn, đại mạn, mạn ngạo, phóng dật.

Tùy từng trường hợp, đức Phật dùng ngữ vựng thích hợp để giải rõ trạng thái “tâm bệnh”. Sắp theo thứ hàng, thì mười một khoảnh trước được trích từ “Ấn Ðộ Phật Giáo Sử” của Long Sơn Chơn Ðiền. Khoảnh thứ mười hai lấy từ kinh Trung A Hàm quyển 23, kinh thứ 93(7)

Nếu toát yếu lại mười hai khoảnh trên thì không ngoài tham - sân - si. Ðức Phật gọi đó là tam độc, tam bất thiện căn, tam hỏa. Gần đây có người giải thích tam độc như vầy: “tâm là một thứ tham dục, hành vi và không thấy đủ của tâm cứ tương tục tiến hành một cách không ngừng nghỉ; do tham dục, hành vi và không thấy đủ của tâm, ba thứ này cấu thành như một sự tuần hoàn(8). Lối giải thích này không mấy chính xác, nhưng dễ lý giải.

Do tham, sân, si mà phân biệt thành nhiều trạng thái tâm lý với nhiều tên gọi khác nhau. Ðồng thời để đối trị tham, sân, si lại cũng phần ra nhiều trạng thái tâm lý và tên gọi khác nhau. Những phân tích trên về các trạng thái tâm lý, kết quả được đời sau gọi một cách ngắn gọn là: tâm vương, tâm sở, tâm sở thiện và tâm sở bất thiện. Sự phân tích trạng thái tâm lý của Phật giáo không đơn thuần là sự phân tích của tâm lý học hiện đại, mà sự phân tích này là nhằm khai thông cách đối trị tâm phiền não nơi con người. Tâm lý học hiện đại là một môn học nằm giữa môn sinh lý học và xã hội học. Nếu biện biệt một cách gán ghép, thì có thể nói tâm lý học của Phật giáo là nhằm đưa con người trở về với căn bản nhân sinhgiải thoát. Trong khi tâm lý học hiện đại chỉ nhằm phân tích và giải thích hiện tượng tâm lý con người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10190)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13586)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13733)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22201)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21862)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27373)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11733)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12326)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25246)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23272)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22760)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25693)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22291)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13988)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13432)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22468)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26368)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18470)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18960)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34502)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27372)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28418)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21368)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14888)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19198)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10615)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18568)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15660)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13178)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13419)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14022)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11788)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11628)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11887)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19941)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12392)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13939)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13270)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31963)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13434)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12755)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13329)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11893)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21861)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11091)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12899)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant