Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 2: Sự hưng vong của Phật giáo

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10695)
Tiết 2: Sự hưng vong của Phật giáo

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG XII
TỪ MẬT GIÁO THỊNH HÀNH ÐẾN PHẬT GIÁO CẬN ÐẠI

TIẾT II. SỰ HƯNG VONG CỦA PHẬT GIÁO

- Ðại Nhật Như Lai.

Trong tương đối, thì Mật giáoHiển giáo khác với Phật giáo Ðại thừa. Hiển giáoNhư Lai ứng hóa thân (Thích Ca) tùy căn cơ chúng sinhphương tiện thuyết pháp. Mật giáoNhư Lai báo thân (Ðại Nhật) bí áo chân thực thuyết pháp. Hiển giáo thì nói phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp tu Bồ tát hạnh rồi sau mới thành Phật; trong khi Mật giáo thì y vào Ðại Nhật Như Lai tự thọ dụng báo thân nói ra pháp nội chứng tự giác của Thánh trí, và trí của đại Phổ Hiền Kim Cang Tát Ðỏa tha thọ báo thân, đời hiện tại mà gặp được A Xà Lê Mạn Trà La, ngay đến việc nhận được Quán đảnh của danh hiệu Kim Cang, được vậy mới chứng đắc pháp thậm thâm bất khả tư nghì, siêu việt trên cả nhị thừa Thánh giả, và thập địa Bồ tát, tức thân thành Phật.

Như vậy có thể thấy Mật giáo tu theo Pháp đốn ngộ, và không khó trong cách hành đạo. Mật giáo cũng cầu sinh về cõi Tịnh độ phương tây, giống như Ấn Ðộ giáo cầu được hợp nhất với Phạm Thiên. Về lịch trình, thì Mật giáo là phép tu chóng thành, về mục đích, thì Mật giáo là phép tu cứu cánh. Sự hình thành nên tư tưởng này là do sự kết tập của Ðại Nhật Kinh, đại khái vào khoảng thế kỷ thứ bảy tây lịch, nhờ có Ðại Nhật Kinh mới hoàn thành được lý luận về thuần mật, đó là đề xướng thuyết “tức thân thành Phật”. Ít lâu sau lại xuất hiện Kim Cang Ðảnh Kinh mới đưa đến Kim Cang thừa của Hậu kỳ Mật giáo, cũng còn gọi là Tả đạo Mật giáo. Tư tưởng chủ yếu của kinh Ðại Nhật là “tức sự nhi chân”, về nguyên tắc thì tư tưởng này đến từ “sự sự vô ngại” của kinh Hoa Nghiêm, đồng thời có thêm sự tham khảo tư tưởng “Phạm - Ngã nhất trí” của Ấn Ðộ giáo, mới tiến đến việc xương xuất giáo nghĩa “tức thân thành Phật”. Chính kinh Ðại - Nhật là người kiến thiết nên lý luận của Mật giáo, và kinh Kim Cang Ðảnh là người khai mở, tức đem cách lý luận này áp dụng vào những sinh hoạt thực tế. Tất cả đều trở thành kết quả “tức sự nhi chân”, “sự sự vô ngại”, hiện tượng như dâm, nộ, si, sẽ là đạo của Niết bàn cứu cánh. Ðiều này đứng về mặt lý luận của Mật giáo có thể chấp nhận, nó cũng chính xác nếu đứng trên bình diện cứu cánh của quả vị Phật, nhưng về phương diện hiện thực của cảnh giới phàm phu “chân” không hẳn là khả năng “tức sự nhi chân” (Phàm phu đó, nhưng cũng là chân như đó). Ðúng hơn, đấy chẳng qua là sự lạm xưng của Tả đạo Mật giáo, mà nguyên nhân là làm cho lẫn lộn thánh phàm, đảo ngược nhân quả.

- Pháp tướng.

Mật giáo rất coi trọng pháp thống của việc “sư thừa”, bởi việc truyền thụ mật pháp buộc phải cần đến quán đảnh của Kim Cang thượng sư (Bí mật A Xà Lê). Nghi quĩ để tu trì mật pháp, tất nhiên cũng cần đến sự gia trì của Kim Cang thượng sư. Vì rằng, Kim Cang thượng sư là do “sư sư tương thừa”, mà đại biểu của vấn đề là Ðại Nhật Như Lai; và tất nhiên, hành giả Du Già cũng cần có phép tu để đạt đến thành tựu. Bởi Mật giáo là thuộc tâm pháp, không như Hiển giáo phải nhờ đến ngữ văn mới lãnh thọ được. Mật giáo truyền thụ một cách bí mật giữa thầy và trò. Quan niệm này được lấy từ Phạn thư của Bà La Môn giáo, và đến thời đại Áo Nghĩa Thư thì thịnh hành.

Theo truyền thuyết của Mật giáo, thì Mật giáo đến từ Ðại Nhật Như Lai (Ma Ha Tỳ Lô Giá Na (Mahàvairocana). Ðại Nhật Như Lai truyền xuống Kim Cang Tát Ðỏa (Vajrasattva - còn có tên là Kim Cang Thủ, Chấp Kim Cang, Trì Kim Cang), Kim Cang Tát Ðỏa là nội quyến thuộc của Ðại Nhật Như Lai, là đứng đầu của các Chấp Kim Cang, và ngự tại Kim Cang pháp giới cung, đích thân nhận giáo sắc của Ðại Nhật Như Lai mới kết tụng truyền trì Mật thừa, và trở thành vị tổ thứ hai của Mật pháp - Tám trăm năm sau Phật diệt độ, có ngài Long Thọ (Long Mãnh) ra đời, khai mở Nam Thiên Thiết Tháp đích thân hướng về Kim Cang Tát Ðỏa mà nhận được Mật thừa, và là vị tổ thứ ba của Mật giáo. Long Thọ truyền xuống đệ tửLong Trí, và là tổ thứ tư của Mật giáo, lại trải qua mấy trăm năm, ước sau Long Trí bảy trăm năm, mới truyền xuống cho Kim Cang Trí là tổ thứ năm của Mật thừa. Trong thời gian thuộc niên niên đại Khai Nguyên (712-714) đời vua Ðường Huyền Tông, Kim Cang Trí là một trong số ba vị Ðại sĩ đến Trung Hoa.

Nhưng qua khảo chứng lịch sử, thì việc ngài Long Thọ (Long Mãnh) khai sáng Nam Thiên Thiết Tháp, và rồi học giả Mật giáo mới khuôn theo Long Thọ để đi đến Long Cung, và nhận được kinh Ðại Thừa Phương Ðẳng vô cùng thâm áo, thì đó chỉ là truyền thuyết; nói khác hơn, đó là dựa theo truyện cổ tích để biên tập lại mà thôi.

Long Cung là ở đâu? Nơi nào? Theo khảo sát thì ở bắc Ấn Ðộ có một Thổ bang tên là Long tộc, hoặc gần giống như vậy. Ngài Long Thọ có được kinh Ðại thừa ở Tuyết SơnLong Cung, sau mới đến nam Ấn Ðộ để hoằng thông, điều này cho thấy nguồn gốc Du già sư của Mật giáo là ở bắc Ấn Ðộ dung hợp với tín ngưỡng của tộc người Ðạt La Duy Trà ở đông nam Ấn Ðộ (tín ngưỡng này là một thành phần của Ấn Ðộ giáo).

Thần Dạ Xoa (Yakkha) của Mật giáo nguyên là một trong số quần thần của dân tộc Ðạt La Duy Trà, do tư thái dũng kiện của thần Dạ Xoadiễn tả thành thần Phẫn Nộ Tôn của Mật giáo. Do thần Dạ Xoa Ni, Mật giáo mới có Không Hành Mẫu (Phật Mẫu), hoặc Minh Phi, chẳng hạn như vậy.

Trong cuốn Ấn Ðộ Phật Giáo Sử của Ða La Na Tha người Tây Tạng cũng nói: “Con đường thông qua Mật giáo đều lấy Long Thọ làm gốc gác ban đầu”, vị Long Thọ này có liên hệ đến La Hầu La Bạt Ðà La của Bà La Môn giáo, nhưng vị La Hầu La Bạt Ðà La này lại được các học giả nghi là đệ tử ngoa truyền của Ðề Bà.

Long Thọ truyền Mật giáo xuống cho Long Trí, đệ tử của Thắng Thiên là Tỳ Lưu Bà lại theo học và làm môn sinh của Long Trí; Thắng Thiên là người chỉ sau Hộ Pháp chút ít. Lại nữa, còn có đệ tử của Nguyệt Xứng là Hộ Túc, ông này cũng từng học với Long Trí. Nhân đấy mới có truyền thuyết rằng Long Trí thọ mệnh đến bảy trăm năm.

Theo Mật giáo Phát Ðạt Chí, thì sự truyền thừa của Kim Cang Trí là Bảo Giác A Xà Lê. Người nước Sư Tử, chứ không phải là Long Trí.

Lại nữa, Tây Tạng Phật Giáo Nguyên Luận của Lữ Trừng, thì nói: “Tổng hợp các sự kiện để xét đoán vấn đề, thì người truyền Mật thừa cho Long ThọLa Hầu La, thầy của Long Thọ, dường như ông ra đời sau Ðề Bà; em của Long ThọLong Trí; lại nữa trước Thắng Thiên và Nguyệt Xứng, có một nhà như thế, và vị này đặc biệt sáng hoằng(9) Ðại thừa của Long Thọ”.

Bất luận thế nào, theo Ấn Ðộ Giáo Sử, chương hai mươi hai của Ða La Na Tha, thì: ở thời Tăng Hộ, hai loại là Sự Bộ và Hành Bộ hiển nhiên đã được lưu hành khoảng hai trăm năm trước đó; nhưng hai loại là Du GiàVô Thượng Du Già vào thời này vẫn chưa xuất hiện, mãi sau đó, thời của vương triều Ba La mới thấy truyền bá(10)

- Bốn bộ Mật Giáo.

Hiện tại xin giới thiệu về bốn bộ mật giáo.

1. Sự Bộ:

Tức Tạp Mật, còn gọi là Tác Mật, phép tu của Tác Mật là vô tướng Du già, tức chỉ mong làm rõ lý “tánh không”; không mấy chú tâm đến sắc thái thường ngã. Lại gom cả Phật, Bồ tát, thần, quỉ vào một “nhà” chưa tổ chức nghiêm mật về Thai tạng giới, tuy kết lập đạo tràng, trọng việc thiết cúng, tụng chú, kết ấn, chú trọng nhiều về hình tướng, và vẫn chưa tác pháp quán tưởng.

2. Hành Bộ:

Còn gọi là Tu Mật. Mật Bộ này lấy kinh Ðại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì(11) (tức Ðại Nhật Kinh) làm chủ, lấy “Trụ tâm phẩm” trong kinh Ðại Nhật, ấy là: “tâm Bồ đề làm nhân, bi (từ bi) làm căn bản, phương tiện làm cứu cánh”, đấy là ba câu làm căn bản, lại giảng về mười duyên sinh gần giống thuyết “tánh không” của kinh Bát Nhã. Nhưng trung tâm của “Bồ đề tâm” đã nhuốm sắc thái thường ngã. Hành bộ lấy đại bi làm gốc, rồi tùy căn cơ chúng sinh mà dùng phương tiện độ thoát. Về mặt thực tại nó biểu hiện nét đặc sắc của Ðại thừa Phật giáo.

3. Du Già Bộ:

Du Già Bộ phối hợp với phương tiện của Hành Bộ làm cứu cánh mà dung nhiếp thế tục, cho nên bộ lày lấy Như Laitrung tâm của Ðại Nhật làm tại gia tướng (thiên nhân tướng), lấy Kim Cang Thủ làm che chở, bảo hộ, tướng xuất gia của đức Thích Ca và các Thánh thuộc hàng nhị thừa, được đặt ở ngoại vi; điều này là do Mạn Ðà La (Mandala, Mật đàn - đạo tràng của phép tu Mật) của Thai Tạng giớiKim Cang giới, như vậy là rõ ràng. Vấn đề này về mặt lý luận, nhan vì Ðại Nhật Như Laibáo thân Phật, Bổn tôn là hóa thân của Phật Thích Ca, Bổn tôn nên ở trung tâm; điều này trên thực tế bao gồm cả các thần của ngoại giáo; coi các thần của ngoại giáo đều do Bổn tôn phương tiện nhiếp hóa mà hiển hiện. Vì vậy, tất cả thiện thần, ác thần của Ấn Ðộ giáo đều được Mật giáo nhiếp hóa. Do từ ý niệm hàng phục chuyển thành ý niệm sùng bái, tất cả đều liên hệxuất phát từ tức sự phi chân” của “sự sự vô ngại”; vì vậy, Bổn tôn cũng gồm cả tướng Bồ tát tại gia. Về tâm lý, điều này được coi là Ðại thừa Mật giáo chuẩn bị cho tả đạo hóa đại phương tiện.

4. Vô Thượng Du Già Bộ:

Vô Thượng Du GiàMật pháp tối cao - tu thành tựu pháp này, thì đấy là tức thân thành tựu quả vị Phật. Do đó, hiện nay ở Tây Tạng, phái Hoàng giáo coi Vô Thượng Du GiàMật pháp rất khí tu trì, ít nhất cũng phải trải qua mười lăm năm khổ công tu luyện; ngay vị A Xà Lê cũng không dạy nổi. Ðây là quan niệm của Hoàng giáo sau khi đã tịnh hóa.

Sự thực thì Vô Thượng Du Già tức là Kim Cang Thừa Pháp, cũng là tả đọa Mật giáo, tức là đại phương tiện của sự thế tục háo trên bình diện hành vi thực tế.

- Vô Thượng Du Già.

Trên phương diện lịch sử của Phật giáo Ấn Ðộ thì pháp môn Vô Thượng Du già mới là sự phát triển thành công sau cùng của Mật giáo. Tuy lai lịch của pháp môn này phần lớn không thể khảo sát. Chúng ta được biết căn nguyên là có một vị môn sinh của ngài Thắng Thiên, tọa chủ chùa Na Lan ÐÀ, tên là Tỳ Lưu Ba, vị này theo ngài Long Thọ - Trí học Mật pháp, và tu đắc Tất địa (Siddhi - tu tam mật tương ưngthành tựu diệu quả) mối quan hệ truyền thừa với khoảng cách thời gian giữa Tỳ Lưu Bà và Long Thọ như sau:

blank

Học hệ của luận sư Thắng Thiên không thể khảo chứng, chỉ biết ông là vị trú trì chùa Na Lan Ðà kế sau Hộ Pháp.

Nhưng có điều, Vô Thượng Du Già của Mật giáo nói nhiều về nghĩa lý sâu kín thâm diệu, nên lúc ban đầu không truyền cho tục nhân, do chỉ có một số ít người trong “sư môn” mới thành tựu được Ðại tất địa, cũng như chỉ biệt truyền mà thôi. Vì thế cách biệt truyền thừa này tương tự như “Phật đảnh” của Tát Bà Ha, “Hiến Hành Du Già Mẫu” của Lô Y Ba, “Hỷ Kim Cang” của Bà Ba Ba. Nguồn gốc truyền thừa Mật pháp đại loại như thế này, không có cách nào để khảo sát cả.

Sau đó, có Ðàm Tỳ Tệ Lưu Ca, Bà Nhật La Kiềm Ðà v.v... nối tiếp nhau đắc đạo. Lại có Bà La Ba, Câu Câu La La Xà, Hỷ Kim Cang, Hộ Túc v.v... cùng xuất hiện và rộng truyền Du Già Mật, và Vô Thượng Du Già Mật, đây là hai trong số ngũ bộ Mật pháp, Ngũ bộ Mật pháp gồm: “Mật tập”, “Hoan Hỷ Kim Cang”, “Minh Ðiểm”, “Huyễn Hóa Mẫu”, “Dạ Ma Ðức Ca”. Ít lâu sau, đệ tử của Hỷ Kim Cang là Ðàn Tỳ Hê Lô Ca truyền “Phật Ðảnh Luân”, “Cứu Ðộ Mẫu”, “A La Lê Ðát Ðặt La”, “Câu La Câu Lê Hiện Chứng Ðát Ðặt La” v.v...

Lại nữa, tương truyền rằng trong số những vị đại A Xà Lê, có vị tên là Ma Ðàn Kỳ, ông từng theo Ðề Bà thu học và chứng đắc Tất địa. Lại có Hộ Túc là người đích thân được Nguyệt Xứng truyền các kinh điển gốc như: “Mật tập” “Minh Ðiển”, lại có thuyết nói đã từng thấy Long Trí truyền thụ tông pháp của ông. Do đó, từ sau Long Thọ, Ðề Bà, Nguyệt Xứng v.v... thì việc chú giải các Mật điển và việc tu Mật mới được truyền thừa rộng rãi; và rồi giữa Mật giáoTrung quán kết dính với nhau không thể hiểu nổi.

Ngoài ra, dưới thời vương triều Ba La, vị vua thứ tư của vương triều này là Ðạt Ma Ba La (766-829), là người sáng lập chùa Siêu Giới. Ông còn là người hết lòng tôn kính, tín ngưỡng một cách đặc biệt đối với Sư Tử Hiền, và đệ tử của Sư Tử HiềnTrí Túc. Sư Tử Hiền xuất thân là người của vương tộc, ông thọ học bản luận Trung Quán và các luận nghị với Tịch Hộ. Thuyết của Sư Tử Hiền kiêm cả Duy thức được Thanh Biện sử dụng một cách chặt chẽ có tính trung đạo theo phái Lập Lượng, mà chính là để rộng truyền Mật thừa.

Nay xin đưa ra biểu đồ về các nhân vật chủ yếu của hệ Vô Thượng Du Già Mật.

Vẽ biểu đồ trang 502

Về truyền thuyết, thì chư đại sư thuộc Ðại thừa học từ Long Thọ, Ðề Bà, Vô Trước, Thế Thân trở xuống không vị nào là không trở thành đại sư Mật thừa.

Thực ra, theo Ða La Na Tha - người Tây Tạng - viết trong bộ Ấn Ðộ Phật Giáo Sử, ở chương hai mươi hai, có đoạn viết: “từ Tăng Hộ trở về trước, pháp bí mật chân ngôn chưa thấy ai lưu truyền. Ai tu tập pháp này thường bí mật giữ kín; trước khi chưa thành tựu, ít ai biết được hành vi của người tu mật pháp. Vì thế người tu trì mật pháp, không thể biết được nhau; còn chuyện thầy trò truyền nhau cũng rất hiếm hoi mới biết được”(12)

- Vô Thượng Du Già Sư.

Ða phần Mật thừa đến từ ngoại giáo, cho nên rất khó nghiên cứu rõ về ngọn nguồn để thiết lập thành hệ thống, mà chỉ trình bày nét đại khái mà thôi. Nhưng từ Long túc trở lui, những vị kế thừa làm trú trì chùa Siêu Giới, thì sự truyền thừa đều có ghi chép nên có thể tra cứu được. Trong đó mười hai vị sớm nhất thường được gọi là “Ðiều phục pháp Ðát Ðặt la A Xà Lê”. Tình hình truyền thừa giữa các vị theo thứ tự sau:

1. Trí Túc - người rộng phổ biến ba sách căn bản về Sự Bộ, Hành Bộ và Du Già Bộ. Ðồng thời ông cũng truyền năm thứ Ðát Ðặt La nội đạo là: Mật Tập, Huyễn Cang, Phật Bình Ðẳng Hành, Nguyệt Minh Ðiểm, Phẫn Nộ Văn Thù:

2. Văn Thù Hiền.

3. Lăng Già Thắng Hiền - người hoằng truyền “Thượng Lạc”.

4. Kiết Tường Trí - người truyền về “Dạ Ma”.

5. Hiện Hiền - là người rộng truyền “Minh Ðiểm”.

6. Thiện xứng.ư

7. Du Hí Kim Cang.

8. Nan Thắng Nguyệt.

9. Bản Thệ Kim Cang - là người truyền “Hỷ Kim Cang”.

10. Như Lai Hộ.

11. Giác Hiền - là người truyền “Dạ Ma” và “Thượng Lạc”.

12. Liên Hoa Hộ - là người truyền “Mật Tập” và “Dạ Ma”. Tất cả các vị này đều thừa tiếp Trí Túc. Chuyển hoằng truyền Vô Thượng Du Già.

Ngoài vị chủ tự chùa Siêu Giới, kỳ dư các vị còn lại phần nhiều đều là sư Mật thừa. Như ngài Tịch hữu, Giác Mật, Giác tịnh, các vị này đều truyền ba bộ Mật pháp, trong khi đó ngài Thậm Thâm Kim Cang, ngài Cam Lộ Mật thì truyền Vô Thượng Du Già. Ðến vị vua đời thứ bảy của vương triều ba La là vua Ma Hê Ba La (848-899), có ngài Tỳ Ðổ Ba truyền “Thời Luân Ðát Ðặt La” là tối thắng Vô Thượng Du Già. Ðệ tử ông là Thời Luân Túc cũng cực lực hoằng truyền Thời Luân Ðát Ðặt La. Cái học của Mật thừa đến thời Luân Ðát Ðặt La được coi là hoàn bị, và đạt đến đỉnh cao nhất.

Dưới thời vua đời thứ mười một của vương triều Ba La - là vua Trà Na Ca, học phong Chùa Siêu giới được tán dươngtối thắng. Các sư nắm giữ chức sự trọng yếu trong chùa Siêu Giới có tên hiệu là “Lục Hiềm Môn”, ấy là gồm: đông môn do sư Bảo Tác Tịnh phụ trách, tây môn do sự Tự Tại Ngộ Xứng phụ trách, bắc môn do sư Na Lộ Ba phụ trách, còn lại do sư Giác Hiền phụ trách, còn trung ương thì do sư Bảo Kim Cang và Sư Trí Kết Tường Hữu phụ trách. Các vị trên đều bác thông ngũ minh, chuyên hoằng Mật thừa, và luôn gắng sức truyền “Thượng Lạc Luân” của Vô Thượng Du Già. Ðồng thời, các vị cũng thường xuyên học tập năm luận Hiển giáo của Di Lặc, bảy bộ Nhân Minh của Pháp Xứng, như: Chánh Lý Nhất Ðích Luận, Lượng Quyết Ðịnh Luận, Lượng Thích Luân, Nhân Luận Nhất Ðích Luận, Quán Tương Thuộc Luận, Luận Nghị Chánh Lý Luận, Thành Tha Tương Tục Luận. Họ cũng chú ý đến Nhập Bồ tát Hạnh Luận của Tịch Thiên. Từ đấy về sau, tuy pháp thống chùa Siêu Giới không bị gián đoạn, nhưng cũng chẳng có thêm sự phát triển gì mới. Các vị chủ tự hữu danh như: Kiết Tường Nhiên Ðăng Trí (tức A Ðể Hạp, sau vào Tây Tạng truyền bá). Mai Ðát Le Ba, và năm vị đại đệ tử của A Ðể Hạp.

Vô thượng Du Già đặt nền tảng trên tinh thần dung nhiếp của đại phương tiện. Trước giờ việc chính yếuhàng phục ngoại đạoác quỷ một cách hiện thực, cũng như làm tịnh hóa cả nội, ngoại thân tâm. Để làm các việc này, điều cần yếu là phải quán tưởng nội tâm, còn việc hàng phục ngoại đạoác ma là nhằm giúp các hạng này qui nhiếp về Phật đạo, dung nhập về Phật pháp; sau cùng mới nhắm đạt đến “tức sự nhi chân”; ấy là quán các thần của ngoại ma là nhằm giúp các hạng này qui nhiếp về Phật đạo, dung nhập về Phật pháp; sau cùng mới nhắm đến ”tức sự nhi chân”; ấy là quán các thần của ngoại đạo cũng tức là Bổn tôn, Bổn tôn được thế tục hóa thì hành giả Mật thừa cũng lấy sinh hoạt được thế tục hóa làm cứu cánh của Bồ tát thánh vị mà đưa ra lập trường tự xử, tạo thành nếp nghĩ duy tâm quán. Cần yếuquán tưởng thanh tịnh vốn vẫn là thanh tịnh, từ đó mà quán tưởng Bổn tôn để sao cho hiệp nhất được với Bổn tôn. Khi Bổn tôn hiện xuất gia tướng thế tục, thì hành giả Mật thừa cũng hành xử theo thế tục sự. Vì thế nên gọi là Tả đạo Mật giáo, hay Tả đạo Mật giáo cũng nhân đấy mà xuất hiện.

- Tả đạo Mật Giáo.

Sở dĩ gọi là Tả đạo Mật giáo, đó là đối với Thuần Mật; hoặc Hữu Ðạo Mật giáo lấy kinh Ðại Nhật làm chủ yếu. Ðại Nhật đã hiện làm tướng trời, người (tại gia), chịu sự giáo lịnh của Ðại Nhật đã hiện làm tướng trời, người (tại gia), chịu sự giáo lịnh của Ðại Nhật Như Laihiện thân hình phẫn nộ, dùgn thân hình phẫn nộ của các Tôn minh vương để hàng phục ác ma, đương nhiên các Tôn minh vương cũng là tướng tại gia. Thiên nhânthiên hậu thiên nữ, thì Minh Vương của Mật giáo cũng có Minh Phi, hoặc gọi là Minh Vương của Nam phụ, và Minh PhiPhật Mẫu (Bhagavati), hoặc còn dịch ra Hán văn là Không Hành Mẫu. Theo sự giải thích của Mật giáo: “Minh ở đây là quang vinh, tức biểu tượng của trí tuệ, còn gọi là thân phẫn nộ, tức dùng thân sức mạnh của trí tuệ làm chủ để triệt phá phiền não nghiệp chướng, nên còn gọi là Minh vương” (Chân ngụy Tạp Ký - quyển mười ba) lại nói: “Minh là nghĩa của đại trí tuệ quang minh”; còn “phi là tam muội, được gọi là Ðại bi thai tạng tam muội”(13).

Ðiều đó cho thấy ý nghĩa giữa Minh VươngMinh Phi vốn biểu trưng cho sự hòa hiệp giữa Bi và Trí. Dùng phương tiện (bi) làm “cha”, và Bát Nhã (trí) làm “mẹ” hợp thành chính lý. Nhưng lúc tu theo phép được nói trong Mạn Trà La, thì phải lấy bộ chủ của các bộ hiệp thành sự phối ngẫu của nữ tôn, và gọi là Minh Phi, lấy việc này đối chiếu với “dục sự” của thiên nhâncõi dục giới thì: Sự Bộ là chỉ “đây đó” (bỉ thử) nhìn nhau mà vui, Hành Bộ là chỉ “đây đó” (bỉ thử) nhìn nhau mà vui, Hành Bộ là chỉ cho việc nắm tay nhau. Du Già Bộ chỉ cho sự ôm nhau, và Vô Thượng Du Già Bộ chỉ cho hai thân giao nhau. Trong “Chư Bộ Yêu Mục”, điều này được nói: “Phật Bộ, lấy Bồ tát Vô Năng Thắng làm Minh Phi, Liên Hoa Bộ lấy Bồ tát Ða La làm Minh Phi, Kim Cang Bộ lấy Bồ tát Tôn Na Lợi làm Minh Phi”. Ðấy chẳng qua là biểu trưng cho sự tương ưng giữa Bi và Trí. Bộ chủ đều có nữ tôn làm “ngẫu”, người tu phép phải sát thực tế, ấy là hai thân nam nữ hành đại lạc. Về sau, Phật giáo Mật thừa lấy Kim Cang Thượng sư làm “phụ”, lấy “ngẫu” của Thượng sưnữ tính của tất cả phép tu mật làm Không Hành Mẫu. Ðến lúc thượng sư tu phép hai thân để chuyển nam tinh nữ huyết làm cam lồ, làm Bồ Ðề tâm.

Phật giáo vốn coi chuyện dâm dục làm chướng ngại đạo pháp, trong khi Tối thượng thừa của Mật giáo lại lấy việc hành dâm làm phép tu đạo. Mật giáo đến được Nhật Bản là từ Trung Hoa, và chỉ truyền Thuần mật là Kim Cang giới, và Thai tạng giới. Không thấy truyền hành pháp tối hậu của Vô Thượng Du Già. Do đó, học giả Nhật Bản gọi Thuần Mật là Tả Ðạo Mật giáo.

Chính là do khai diễn hành pháp về hai thân giao nhau, mà đón nhận sự xuất hiện rất nhiều danh từ tượng trưng. Coi sinh thực khí của người nam là Kim cang chữ, sinh thực khí của người nữ thì gọi là liên hoa. Lấy tính giao gọi là nhập định, lấy việc nam xuất tinh nữ huyết gọi là xích bạch Bồ Ðề tâm; cho rằng khi sắp xuất tinh nhưng giữ lại thực lâu không cho xuất để khoái lạc kéo dài, thì cái “lạc” đó gọi là “đại lạc”, “diệu lạc”. Với người tu trì là nam tính mà nói, thì sinh thực khí của nữ tính, thực tại là “đạo tràng” này, có thể chứng đắc tất địa; nhân đó, mới gọi âm đạo của người nữ là “Bà Già Bà” là “hữu đắc”, hoặc “tổng nhiếp chúng đức”, Mật giáo thì lấy “Bà Già Bà Ðê” ngầm chỉ cho nữ tính. Vì vậy, Bà Già Mạn Ðà La có thể làm nên đàn tu mật theo cách tu Phật mẫu quán. Hiện nay ở Tây Tạng phái Lạt Ma Hoàng giáo tuân thủ giới luật thanh tịnh, và cấm tuyệt việc tiếp cận nữ giới, và đến lúc tu Vô Thượng Du Già, phái Hoàng giáo cho tác quán thay vì thực tế là hành tính giao. Liên Hoa Sanh (Padmasambhava - thế kỷ thức tám tây lịch) đầu tiên truyền Mật giáo vào Tây Tạng. Ông kết hôn với người em gái của Tịch Hộ. Ông là người thuộc phái thực tế của Vô Thượng Du Già và cũng là tiền thân của Hồng giáo Lạt MaTây Tạng.

Tuy nhiên, nếu áp dụng phép tu theo cách vừa lược thuật trên, không khéo sẽ phóng túng, hoặc sẽ là tạp dâm. Do đó, những người tu thuộc hàng hậu bối tự mình thiếu cảnh giác sẽ dễ rơi vào cái danh xưng của pháp tu, mà lại hưởng cái thực của sự dâm lạc; các học giả của phái này ở thời kỳ đầu, họ không phải là hạng hoang đường dâm loạn, mà họ coi đó là thần thánh tối cao, cũng như họ có nhiều thứ Nghi quĩ để hạn chế. Chẳng qua, phép tu này nguyên ủy không phát xuất từ Phật giáo, chưa nói là do thực hành phép tu này làm thương tổn đến huệ mạng của Phật giáo.

- Nguồn gốc của tư tưởng Ðại Lạc.

Tư tưởng đại lạc (Mahàsukha) của Tả đạo Mật giáo được lưu xuất từ kinh Kim Cang Ðỉnh. Chẳng hạn như kinh Kim Cang Ðỉnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thực Nhiếp Ðại Thừa Hiện Chứng Ðại Giáo Vương(14), có bài kệ “Kỳ tại tự tánh tịnh, tùy nhiễm dục tự nhiên; ly dục thanh tịnh cố, dĩ nhiễm nhưng điều phục” (lạ thay tự tánh thanh tịnh, chạy theo dục nhiễm là điều tự nhiên, cho nên thanh tịnh là do ly dục, muốn vậy hãy lấy nhiễm mà điều phục (lạ thay tự tánh tịnh, chạy theo dục nhiễm là điều tự nhiên, cho nên thanh tịnh là do ly dục, muốn vậy hãy lấy nhiễm mà điều phục nhiễm). Lại nói: “Ðiều đó đối với chư vị Phật, có năng lực chuyển làm tướng thiện, tu các Hỷ Kim Cang, diệu hỷ thêm lớn mạnh”.

Kim Cang (Vajra) là tên gọi phổ thông dùng chỉ các vị thiên thần. Những vị thần này đều là quyến thuộc thị vệ của Bổn Tôn Phật, và lấy Kim Cang Tát Ðỏa làm thượng thủ. Mật giáo lại cho rằng Kim Cang tức là sự hiển hiện của Phật. Vì vậy Kim Cang cũng tức là Bổn Tôn. Quyển trung của kinh vừa nêu, tự thuật rằng, đức Thích Tôn Tỳ Lô Giá na nhập và các thứ cúng dường tam muội, “Bảo Man Quán Ðảnh tam muội, Ca Vịnh cúng dường tam muội đều có đại thiên nữ theo tự tâm mà hiện xuất”. Lại nói: “Do tham nhiễm cúng dường, nên có khả năng chuyển các thứ thành cúng dường”. Ðấy là bí mật hóa sinh hoạt của thiên nhâncõi dục giới. Khi đã có thiên nữ làm các việc cúng dường, thì có hành vi dâm lạc, như vậy phải quá xuất dục là điều tự nhiên.

Một lần nữa truy cho rõ căn nguyên tông tích của tư tưởng trên, thì quả đúng là tư tưởng này đến từ Tính Lực của Ấn Ðộ giáo (Sàkta), dịch âm Hán ngữ là Thước Khất Ða. Theo giới thiệu của Thị Kỳ Chính Trị người Nhật Bản, thì phái Tính lực là một chi của Thấp Bà thuộc Ấn Ðộ. Do sùng bái uy lực của thần Thấp Bà dẫn đến việc sùng bái Sanh Thực Lực, và nữ thần. Trong uy lực của thần Thấp Bà có sức mạnh “sinh thực” của nam và nữ. Việc sinh sản là do người nữ đảm nhận. Do đó, có một chi phái chỉ riêng sùng bái vợ của thần Thấp Bà. Ðấy chính là sùng bái Tính lực của nữ thần.

Với thần Thấp Bà mà nói, thì việc sùng bái là thuộc về hữu đạo phái, còn việc sùng bái Tính lực của nữ thần thì thuộc về Tả đạo phái.

Riêng tính cách của Nữ thần có hai phương diện là thiện và ác; khi uy lực của nữ thần sử dụng vào việc phá hoại, thì đó là nữ thần của sự chết, và gọi là Khải Lợi (Kalì). Hình mạo của nữ thần phá hủy trông rất hung tợn; tóc thì tung xòe ra, miệng thì há rộng, tay thì cầm gươm, giết người thì vấy máu vào cổ họng, lấy xương người đeo lên cổ. Nữ thần phá hoại còn có tên khác, đó là Ðỗ Nhĩ Gia (Durga), nguyên tên gọi này có liên quan đến nữ thần ở núi Tần Ðà Da (còn dịch là Tần Xà Da). Sau thời đại Sử thi, nữ thần Ðỗ Nhĩ Gia mới trở thành vợ của thần Thấp Bà. Toàn thân nữ thần Ðỗ Nhĩ Gia đều mặc kim sắc, cưỡi cọp, có dến mười tay cầm binh khí diệt ác ma. Tính cách của nữ thần rất khó dự đoán; vì thế, bà có rất nhiều tên tự, ước có khoảng nghìn tên. Như khi là nữ thần ái dục thì có tên là Ca Di Tức Phù Lợi (Kamesùvari), khi nữ thần thanh tịnh, thì có tên là Duy Ma Lạp (Vimalà), khi là nữ thần đại trí, thì tên Ma Ha Bát Nhã (Mahàvidyà), khi là nữ thần sinh dục và đại mẫu, thì có tên là Ma Ha Ma Ðê (Mahàmàtrï), khi là nữ thần ưa thích nhục dục, thì có tên là Na Dật Ca (Nayikà), đấy là thực hành phép tu nghiệm của Nữ thần Du Già (Yogirì). Tóm lại, gánh lấy một bộ phận của vũ trụ, bất luận đólà trách nhiệm phá hủy hay ôn hòa cũng đều là thuộc tính của vị nữ thần này. Vạn vật đều do tính lực của Nữ thần sinh ra, cho nên việc phóng túng nhục dục là do việc sùng bái vị nữ thần này mà ra cả.

Phái Tính Lực ở Ấn Ðộ coi việc phóng túng nhục dục là phương pháp dùng để phụng sự nữ thần, và sùng bái nữ thần; bởi vậy, khi tín đồ tụ hội lại để tế lễ, họ dùng một cô gái lõa thể làm Bổn tôn cho lễ cúng, và mọi người đi vòng quanh cô gái lõa thể, và rồi đầu tiên họ uống rượu (Madya), tiếp đến là ăn thịt (Mamsa), ăn cá (Matsya), đợi đến lúc Tính giao (Maithuna). Cuối cùng họ lấy việc nam nữ hoan lạc một cách tạp loạn làm chung kết, họ gọi chung các hoạt động vừa nêu là Ngũ ma tự chơn ngôn. Tất cả tín đồ coi việc tụ hội này bằng một mật xưng là Thánh Luân (Gri Ca Kra). Việc tính giao sau rốt mới là nghi thức tối bí mật, tối cần thiết, và là thần thánh nhất hạng.

Ðem những việc của phái Tính lực đưa vào Vô Thượng Du Già của Mật giáo, liền phối hợp thành quan niệm: “Trước là lấy dục dẫn dắt, sau khiến đi vào Phật trí”. Và dùng Minh Phi làm tương ưng, dùng Phật mẫu làm tương ưng, lấy tính giao làm tu hành.

Lại nữa, nhân vì sùng bái nữ thầnkinh điển phái Tính lực được gọi là Ðát Ðặt la không mấy rõ ràng, bộ phận cổ xưa nhất qua lời mở đầu dường như là vào thế kỷ thứ VII tây lịch. Ðồn thời, khi kinh điển này được thu nạp vào Mật thừa cũng lấy tên là Ðát Ðặt La(15). Như lấy Ðát Ðặt La làm giáo thuyết cho ba tướng tương tục thành tựunhân tướng, tánh tướngquả tướng, xin tham cứu cách giải thích của Mật giáo Tây Tạng (16)

- Sùng bái Sinh Thực.

Một lần nữa lại điều tra kỹ nguồn gốc sùng bái Tính lực thì thấy rằng, ấy là do tôn giáo nguyên thỉ sùng bái “thứ vật”, từ đó mà diễn hóa thành công. Nhận định này của Thị Kỳ Chính Trị - người Nhật Bản. Sùng bái “thứ vật” tuy là hình thái tôn giáo nguyên thỉ của Ấn Ðộ, cho đến việc sùng bái sinh thực khí (bộ phận sinh dục) của nam nữ, việc sùng bái này không tìm thấy trong kinh Vệ Ðà, và đấy cũng chẳng phải là tín ngưỡng của thổ dân tại Ấn Ðộ. Ðiều này cho phép ta suy đoán sự sùng bái sinh thực khí là do du nhập từ văn hóa ngoại lai, và được Ấn Ðộ giáo hấp thụ. Nhưng trong văn học “Phú Lan Na” đã dùng thần Thấp Bà và vợ của Thần để biểu hiện sức phá hủy và sức phục sinh. Do đó, mới dẫn đến việc lấy sinh thực khí của nam nữ làm biểu trưng cho hai sức mạnh này.

Phạn văn gọi nam âm là Linga, và nữ âm là Yoni. Tuy vậy, nhưng ngẫu tượng về nam - nữ sinh thực khí không được dùng sức người để điêu khắc, mà phải dùng khối đá ngoài thiên nhiên có hình thù giống như sinh thực khí của nam nữ để tượng trưng, và coi đó là đối tượng để sùng bái. Như vậy, việc sùng bái này là do quá trình diễn biến từ việc sùng bái thứ vật mà thành. Buổi ban đầu chỉ nhằm tượng trưng cho uy lực thiên nhiên của thần Thấp Bà, và sức mạnh phá hủyphục sinh của người vợ Thần, hoàn toàn không chút hàm ý dâm ô. Song do việc sùng bái nam nữ sinh thực khí mà chuyển thành nam - nữ tính giao, thì cho là sự việc đã thuận lý thành chương(17).

Trên bình diện khảo sát rộng hơn nữa, thì việc sùng bái sinh lý nam nữ mang tính thần bí này, cơ hồ như đó là quan niệm của nhiều dân tộc trên thế giới. Ở thời đại nguyên thỉ có một thiểu số người căn cứ vào việc giao hợp giữa nam và nữ để rút ra kết luận, đó là đi từ suy đoán rằng nguyên lý về hiện tượng sinh diệt của vạn vật trong vũ trụ cũng giống như việc cha mẹ sinh nuôi con cái, lấy đó biểu diễn thành nam nữ sinh lực sinh diệt của trời đất, à hậu quả là hình thành phái chuyên sùng bái sinh thực khí (Phakicworship) - phong tục này đã từng thịnh hành tại các vùng như Hy lạp, la mã, và ngày nay còn sót lại trong Ấn Ðộ giáo.

Kinh dịch của Tung Quốc ít nhiều cũng là Á lưu của sùng bái sinh thực khí. “Chu dịch” dùng hình ảnh con rồng hình dung cho Càn (trời, người nam) và con ngựa cái hình dung cho Khôn (đất, người nữ). Coi Càn - Khôn ấy là thiên địa, từ thiên địa mà thành âm dương, âm dương giao nhau sinh ra vạn vật. Lại lấy hào dương (-) tượng trưng cho Càn, hào âm (- -) tượng trưng cho Khôn. Thực thì đây cũng là phù hiệu của nam nữ sinh thực khí.

Tại hệ từ thượng truyện chương thứ năm, nói: “Càn khi tĩnh thì chuyên, khi động thì ngay, lấy đó làm đại sinh; Khôn khi tĩnh đóng, khi động thì mở, lấy đó làm quảng sinh”, đấy là nói rõ trạng thái động tĩnh, và công năng của nam nữ sinh thực khí.

Hệ từ hạ truyện chương thứ tư lại nói: “đất trời hun đúc, vạn vật thuần hóa, nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh”. Ðây là nói rõ kết quả việc âm dương hòa hợp. Hệ từ hạ truyện chương thứ năm mô tả vấn đề này càng rõ hơn: “Càn, ấy là dương vật; Khôn ấy là âm vật. Sức hợp nhau của âm dương thì thể cương nhu mới có, thể là sự lựa chọn của đất trời, lấy sức (đức) mà thông thần minh”. Ðây là do quan niệm nam nữ, âm dương mà suy triển đến đạo lý của trời đất và thần minh. Thượng truyện ở chương bốn cũng nói: “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” (một âm một dương ấy là đạo) dạo ở đây là lý tự nhiên của trời đất, mà cũng là cái nhân luân giữa nam và nữ. Lại nói: “âm dương bất trắc vị chi thần” (sự biến hóa của âm dương không thể lường hết gọi là thần). Biến hóasức mạnh không thể đoán trước, đó là thần. Thời cổ đại loài người đã lấy thần minh để lặp thành tôn giáo, nguyên tắc của việc hình thành tôn giáo là như vừa trình bày.

Hệ từ của kinh dịch là sự giải thích của khổng tử đối với các hào quái do Chu công vạch ra trong kinh Dịch. Các Thánh Nho đó mà quan sát sẽ không bị sai lệch. Kinh Dịch được coi là sự khảo sát vũ trụ, nhân sinh của các bậc tiên Nho vô cùng vĩ đại; về sau các nhà phương sĩ (người tu luyện phép tiên) lấy âm dương - Càn Khôn của kinh Dịch diễn thành “thuật phòng trung”. Phái Tính lực của Ấn Ðộ coi chuyện hành sự (nam nữ giao hoan) là một thực tế, xét ở góc độ này, thì phái Tính lực không có gì là lạ cả.

- Sự diệt vong của Phật Giáo.

Ðương nhiên, con người thời nguyên thỉ tôn thờ nam nữ thực khí, và diễn bày nó thành vấn đề tín ngưỡng tôn giáo. Ðiều đó, ngày nay chúng ta không nên phê bình, đả kích, cho đó là ngu xuẩn. Nhưng nếu hiện nay con người vẫn cứ phụng hành theo tín ngưỡng của người nguyên thỉ, thì không còn gì ngu xuẩn hơn!

Cũng nên xác nhậnMật giáo cũng có nhiều ưu điểm: Mật chúhành pháp Du Già chính xác cũng đưa đến hiệu nghiệm tương đương; tuy nhiên, dù đó là “Song thân pháp”, là thuật phóng trung v.v... đi nữa, thì ít nhiều vẫn có căn cứ về sinh lý học. Các học giả Mật giáo Tung Quốc thời cận đại, đa số cũng rất hứng thú sâu sắc về phương thuật của Ðạo Gia. Nguyên nhân có thể là giữa họ với nhau chắc là có mối tương thông.

Với Phật giáo, về bản chất mà nói duy chỉ có thấu hiểu Tứ thánh đế một cách thực tiễn mới mong đạt thành mục đích, đó là sự chân giải thoát; thực tiễn ở đây là thực hành tam vô lậu học Giới Ðịnh Huệ, thực hành Tứ Nhiếp Pháp, và Lục Ðộ Hạnh. Ðây là con đường chân chính đi đến Phật quả. Ngược lại, nếu chỉ dựa vào danh nghĩa Phật pháp, nhưng thực hành theo lối tu của ngoại đạo, như vậy làm sao Phật giáo khỏi bị diệt vong!

Việc tu theo ngoại đạo của Mật thừa kéo dài đến đời thứ mười tám của vương triều Ba La; thời vua Ma Ha Ba La, thì Vô Úy, Hiện Hộ đã hình thành Ấn Ðộ mật học của Ðiện Quân. Không lâu sau, thời vua Dạ Xoa Ba la. Vị vua thứ mười tám của vương triều Ba La bị dại thần là La Bà Tư Na soán ngôi, và vương triều Ba La bị diệt vong. Kế tiếpvương triều Tư Na, vương triều được bốn đời vua, kéo dài ước chừng tám mươi năm.

Nay xin dùng biểu đồ nói về niên đại của vương triều Ba Laliên hệ đến các Phật sự quan trọng của Phật giáo

 

Tên vua

Tây lịch

Thời đại

Trung Quốc

Ðại sự

Ðời thứ nhất

Cù Ba La

600-705

Từ Ðường Cao Tông đến thời Ðường Trung Tông

Vương triều Ba La khai sáng - Nghĩa Tịnh đến Ấn Ðộ.

Ðời thứ hai

706-753

Từ Ðường Trung Tông đến Ðường Huyền Tông

Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí, Bất Không - đến Trung Hoa. Tịch HộLiên Hoa Sanh đến Tây Tạng.

Ðời thứ tư

766-829

Từ Ðường Ðức Tông đến Ðường Kính Tông

Khởi xây chùa Siêu Giới. Sư tử HiềnTrí Túc hoằng truyền Mật thừa.

Ðời thứ bảy

848-899

Từ Ðường Tuyên Tông đến Ðường Chiêu Tông

Tỳ Ðỗ Bà và Thời Luân Túc hoằng Mật; Thắng Hữu vào Tây Tạng.

Ðời thứ mười

955-983

Thế Tông nhà hâu Chu đến Tống Thái Tông

Chùa Siêu Giới xuất hiện sáu hiền môn (Tăng tài)

Ðời thứ mười ba Niết Da Ba La

1015-1050

Từ Tông Chân Tông đến Tống Nhân Tông

A Ðể Hạp của chùa Siêu Giới vào Tây Tạng.

Ðời thư mười tám Dạ Xoa Ba La

1138-1139

Thời Cao Tông đời Nam Tống

Ðậi thần Ba la Tư Na soán ngôi. Vương triều diệt vong

Những buổi đầu của Thiên An thuộc Ba La vương triều, có vị tướng quân của Hồi giáoMa Ha Mạt bắt đầu đánh chiếm lưu vực Ấn Ðộ hà, vào hậu bán thế kỷ thứ X tây lịch. Hồi giáo chiếm lĩnh vùng Khách Bố Nhĩ và định đô tại đây. Kế tiếp Hồi giáo xâm lấn Bàng Gia Phổ, rồi từ đó xâm nhập nội địa Ấn Ðộ trước sau cả thảy là mười bảy lần. Những chiến binh, họ đều là tín đồ Hồi giáo. Những chiến binh này thân tín rằng giết các tín đồ khác tôn giáo với họ là phương pháp để cầu sinh về nước trời. Chính vì thế, nên cứ mỗi lần xâm nhập vào nội địa Ấn Ðộ, việc đầu tiên họ làm là thiêu hủy chùa chiền, tháp Phật và tàn hại tăng tín đồ Phật giáo lên đến con số không thể nói hết.

Ðến cuối thế kỷ thứ mười một tây lịch, thời kỳ cuối của vương triều Ba La, tiếp đó vương triều Tư Na, quân đội Hồi giáo lại xâm nhập sâu vào nội địa Ấn Ðộ. Chung cuộc họ chiếm lấy cứ điểm sau cùng của Phật giáo - tức phần đất ở đông Ấn Ðộ. Họ giết phá sạch sẽ bóng dáng Phật giáo tại đây. Bấy giờ các đại sư Mật giáo đều chạy tán loạn, đa số chạy đến các vùng như Khách Thập Mễ Nhĩ, rồi từ đó họ đi vào Tây Tạng, một bộ phận khác thì chạy đến Ni Bạc Nhĩ. May thay pháp vật quí nhất của Phật giáo Ấn Ðộ thoát khỏi nạn tàn diệt này, đó là chùa Na Lan Ðà, và có hơn bảy mươi người thuộc hạng thấp trong chùa còn sống sót. Chẳng lâu sau, tất cả người trong vương thất Ba La và Tư Na đều cải đạo theo Hồi giáo. Những ai không theo Hồi giáo thì lập thức nhập vào Ấn Ðộ giáo. Vào cuối thế kỷ thứ XII tây lịch, Phật giáo tại Ấn Ðộ coi như bị tuyệt tích.

Như những gì vừa trình bày, thì Phật giáo tại Ấn Ðộ có hai nhân tố đưa đến diệt vong:

- Một là, tự thân Phật giáo đón nhận và hiệp nhập với ngoại đạo tại Ấn Ðộ. Kết quả, Phật giáo biến thành và hợp lưu với ngoại đạo, tự mình dung nạp vào Ấn Ðộ giáo.

- Hai là, quân đội Hồi giáo mỗi lần xâm nhập Ấn Ðộ là tìm cách triệt tiêu Phật giáo, và đó là lý do khiến Phật giáo không còn đất dung thân tại Ấn Ðộ.


TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Ðại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Ðà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Ðại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Ðộ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốcpháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Ðây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

blank

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vipháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Ðạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyênmười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

blank
 

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệtđộc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tươngliên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

blank

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian phápxuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gianxuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế giankhí thế gian. Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gianan lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữutrung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gianan lập thứ tự. Dục giới, sắc giớivô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giớivô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Ðịnh của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trívô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp tríloại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần địnhcăn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơntrải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyênngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Ðộc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trướchiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Ðẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Ðây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.
 
 

(1) Ðại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Ðạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Ðiển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Ðại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Ðại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Ðại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Ðại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Ðại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Ðại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Ðiển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Ðộ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10426)
Tập Kỷ Yếu này ghi nhận lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những hình ảnh sinh hoạt của Trường Hạ Minh Quang như một món quà tinh thần kỷ niệm cuối khóa cho mọi hành giả tham dự khóa tu... Giáo Hội ÚC Châu
(Xem: 9532)
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời... Nhất Hạnh
(Xem: 9243)
Toàn bộ mục tiêu của tôn giáophổ cập từ ái và bi mẫn, nhẫn nhục, bao dung, khiêm tốn, tha thứ... Dalai Lama
(Xem: 31218)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 20697)
Những bài nói chuyện trong tập sách này được đề cập đến những vấn đề rất tổng quát của tâm, nhân dịp Lạt ma Yeshe đi thuyết giảng vòng quanh thế giới lần thứ hai cùng với Lạt ma Zopa...
(Xem: 23084)
Thơ Văn Lý Trần - Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977, Nhiều Tác Giả
(Xem: 17691)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 11612)
Mục đích có được thân người quý báu này không phải chỉ để tạo hạnh phúc cho chính mình, mà còn để làm vơi bớt khổ đau, đem lại hạnh phúc cho người. Đó là mục đích đời sống.
(Xem: 21351)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 8730)
Đại ý bài kinh đại khái nói về việc ngài Anan thưa hỏi đức Thế Tôn về việc phụng sự Phật phápkiết tường hay hung tai? HT Thích Minh Thông
(Xem: 22116)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 13292)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38439)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 13351)
Nhà Sư Vướng Lụy hay truyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly - Nguyên tác Tô Mạng Thù; Bùi Giáng dịch
(Xem: 24245)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 14932)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24570)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 10154)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
(Xem: 17599)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22679)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 22622)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7494)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng...
(Xem: 14058)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 27023)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 26780)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 19837)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20801)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21341)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13203)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
(Xem: 13330)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 29785)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 13876)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13919)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 32401)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 24010)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 29741)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31515)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 34161)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 18420)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
(Xem: 19473)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 32787)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 18694)
Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng.
(Xem: 30789)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 16117)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26726)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 32576)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39334)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40425)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 19268)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
(Xem: 19266)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant