Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Danh từ Ấn, Hồi

05 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13528)
Danh từ Ấn, Hồi

LỊCH SỬ VĂN MINH ẤN ĐỘ 

Tác giả: Will Durant - Nguyễn Hiến Lê dịch

DANH TỪ ẤN, HỒI

do Pháp phiên âm
(Chúng tôi bỏ bớt một số danh từ ít gặp trong sách)

A

Abhidamma
: Luận, một trong tam tạng của Phật giáo.

Açoka
[Ashoka]: (A Dục) một trong những ông vua đầu tiên theo đạo Phật và làm cho đạo đó phát triển mạnh, ở thế kỉ thứ III trước Công nguyên.

Adrishta
: Vô kiến

Advaitam
: bất nhị nguyên

Ahimsa
: giới luật bất tổn sinh (không được làm thương tổn tới sinh mạng của một loài nào), ta thường dịch là bất bạo động, hoặc bất hại.

Ajur veda
: phép trường sinh chỉ trong Arthava Veda.

Akbar
: (A Cách Bá) một ông vua gốc Mông Cổ cai trị Ấn, rất có tài, ở thế kỉ XVI.

Amida
: Phật A Di Đà.

Ananda
: khánh hỉ tức cảnh vĩnh phúc khi đã đại giác, thấy mình với Đại Ngã chỉ là một. Cũng là tên một môn đệ thân tín của Phật Thích Ca, theo truyền thuyết có công đầu chép lại lời dạy của Phật; tiếng Hán là A Nan.

Aranyaka
: một phần trong các kinh Veda.

Arhat
: La Hán, trong đạo Phật. Trong đạo Jaïn, trỏ một linh hồn đã được giải thoát vĩnh viễn.

Asana
: (tư thế) giai đoạn thứ ba để tu yoga: bỏ hết mọi cử động, cảm giác.

Ashrama
: giai đoạn tu hành theo Bà La Môn để tới bực thánh.

Astika
: hữu (trái với vô).

Atharva Veda
: Coi Veda.

Atman
: linh hồn của mọi linh hồn, tức cái Đại Ngã. Atman với Brahman chỉ là một.

Avalokiteshvara
: một vị thần từ bi trong Ấn Độ giáo[1].

Avidya
: vô minh (không sáng suốt, mê muội).



B

Bengali: một ngôn ngữ văn chương ở miền Bengale.

Bhakti-yoga
: con đường tu hành bằng từ ái.

Bhagavad Gita
: trường thi triết lí danh tiếng nhất của Ấn, người Trung Hoa dịch là Bát Già Phạn khúc.

Bhikkhu
: tì khưu.

Bodhi: cây bồ đề.

Bodhisattwa
: Phật Bồ Tát, tự nguyện đầu thai để cứu nhân loại.

Brahma
: Phạn Thiên, một trong ba vị thần tối cao.

Brahmana
: Phạn chí, sách lễ của đạo Bà La Môn.

Brahmane
[Brahman]: Bà La Môn, trỏ một tập cấp tu sĩ và đạo của các tu sĩ đó, đạo này có trước Phật giáo, rất phổ biến ở Ấn.

Brahman
: Thực thể của vũ trụ, linh hồn của mọi vật (nhiều sách thường dùng lẫn lộn Brahma với Brahman).
Bhrama-chary[2]
: giai đoạn tu hành thứ nhất của Bà La Môn khi chưa có vợ.

Bhramacharya
: nguyện vọng của người tu hành, bỏ hết nhục dục, giữ cho mình thanh khiết.

Bhrama-somaj
: Hội Brahma, một phong trào cải lương ở thế kỉ XIX.

Buddhi
: trí năng.


CH

Chaïtya
[Chaitya]: phòng hội họp trong các chùa, đền.

Charka
: guồng quay sợi.

Charvaka
: một phái duy vật ở Ấn.




D

Darshana
: tên gọi chung các triết hệ chính thống ở Ấn.

Devadasi
: ca vũ nữ mà cũng là con gái điếm trong các đền Ấn.

Devadatta
: (Đề Bà Đạt Đa) em bà con của Phật.

Dharana
: giai đoạn thứ sáu để tu yoga: thiền.

Dharma
: bổn phận thuộc mỗi tập cấp.

Dhyana
: giai đoạn thứ bảy để tu yoga: định.

Digambara
: một phái trong đạo Jaïn, chủ trương khoả thân.

Dravidien
[Dravidian]: thổ dân ở Nam Ấn.




F

Fakir
: từ ngữ này gốc Ả Rập, chính nghĩa là nghèo, mới đầu trỏ một hạng tu sĩ Hồi nguyện sống nghèo, sau trỏ cả những tu sĩ yoga[3].



G

Gandhara
: tên một miền mà cũng là một phái điêu khắc chịu ảnh hưởng của Hi Lạp.

Gautama
: Cồ Đàm, thị tộc của Phật Thích Ca.

Gopuram
: cửa chính trong các đền Ấn.

Grihastha
: giai đoạn tu hành thứ nhì của Bà La Môn khi có vợ.

Guna
: khả năng biến hoá.

Gupta
: tên một miền ở Ấn rất thịnh, rất văn minh trong các thế kỉ thứ IV, V; cũng trỏ nền văn minh đó.

Guru
: thầy, phu tử; mỗi trẻ em Ấn theo học một guru từ nhỏ tới khoảng 20 tuổi, phải phục vụ guru cũng như hồi xưa chúng ta phục vụ các thầy đồ.



H

Hinayana
: Tiểu thặng, cũng gọi là Tiểu thừa (tiếng Pháp dịch là Petit véhicule).

Hindi
: một thổ ngữ quan trọng ở Ấn.

Hindoustani
[Hindustani]: một thổ ngữ từ thổ ngữ hindi chuyển qua.


I

Inana-yoga
[Jnana-yoga]: con đường tu hành bằng trầm tư.

Ishvara
: đấng Sáng tạo, cũng tức là Brahman.



J

Jaïn
[Jain]: (Kì Na giáo) một tôn giáo đồng thời với đạo Phật.

Jaimini
: người thành lập triết thuyết Purvamimansa.

Jina
: đấng Cứu thế, theo đạo Jaïn.


K

Kali
: nữ thần, thường được coi là thần Chết, hình rất rùng rợn, vợ của thần Shiva.

Kalpa
: kiếp, một chu kì bằng 4.320 triệu năm.

Kanada
: thuỷ tổ phái Vaisheshika.

Kapila
: người lập ra triết thuyết Sankhya.

Kapilavastu
: Ca Tì La Vệ, kinh đô vương quốc của thân phụ Phật Thích Ca.

Karma
: nghiệp báo[4].

Karma-yoga
: con đường tu bằng hành động.

Khaddar
: một thứ hàng “len” xấu, hoặc một thứ vải thô người Ấn dệt lấy.

Kharosthi: cổ tự Ấn ở thế kỉ thứ V trước Công nguyên.

Krishna
: một vị thần, hoá thân của thần Vichnou.

Kshatriya
: tập cấp chiến sĩ.


L

Linga
: hình tượng trưng dương vật, để thờ.

 

M

Mahabharata
: một anh hùng trường ca thời cổ, rất danh tiếng.

Mahatma
: thánh.

Mahavira
: đại anh hùng, tên tín đồ Jaïn tặng người sáng lập ra đạo Jaïn.

Mahayana
: Đại thặng, cũng gọi là Đại thừa (tiếng Pháp dịch là Grand véhicule).

Mahayuga
: một thời vận bằng 4.320.000 năm, một phần ngàn của một kalpa.

Manas
: mạt-na, tức tinh thần.

Mandapam
: cổng trong các đền Ấn.

Manou
[Manu]: bộ luật cổ về các tập cấp; theo truyền thuyết, Manou là người soạn bộ luật đó.

Mantra
: thánh ca, có chỗ trỏ thần chú, bùa phép.

Mastaba
: bệ lớn trên đó dựng đền, như bệ Voi ở Đế Thiên Đế Thích.

Maya
: Ma Da, tên thân mẫu Phật Thích Ca.

Moksha
: sự thoát khỏi vòng luân hồi.

Mullah
: tu sĩ Hồi giáo.

 

N

Nalanda
: tu viện Na Lan Đà.

Naga
: thổ dân Ấn trước khi người Aryen tới; cũng trỏ rồng thần hoặc rắn thần mà thổ dân đó thờ.

Nastika
: vô (trái với hữu).

Niyama
: (luật) giai đoạn thứ nhì để tu yoga: giai đoạn dự bị.

Nirvana
: Niết bàn.

Nyaya
: luận lí học, tên một triết thuyết trọng sự biện luận (chính nghĩa là nghị luận).



O

Om
: một âm thiêng liêng của Ấn, người tu yoga khi toạ thiền, tụng hoài âm đó.


P

Pali
: cổ ngữ Ấn ở phương Nam, có sau cổ ngữ sanscrit; các sách Việt thường dịch sanscrit và pali là tiếng phạn, có lẽ nên phân biệt sanscrit là bắc phạn, và pali là nam phạn.

Panchagavia
: một phép “tẩy uế” rất đáng kinh, phải uống nước tiểu của bò cái, vân vân.

Paria
[Pariah]: tiện dân.

Pitaka
: tạng.

Prakiti [Prakriti]: bản thể (cái sinh ra những cái khác).

Prakrit
: cổ ngữ Ấn, có sau cổ ngữ sanscrit, trước cổ ngữ pali.

Pranayama
: (điều khí) giai đoạn thứ tư để tu yoga: kiểm soát hơi thở.

Pratyahara
: (li thế) giai đoạn thứ năm để tu yoga: diệt hết ý nghĩ.

Purana
: sách giáo lí cho các tập cấp không phải là Bà La Môn; cũng có nghĩa là truyện cổ Ấn Độ.

Purdah
: tục đàn bà cấm cung và che mặt.

Purusha
: thần ngã hoặc tinh thần.

Pura mimansa
: một triết thuyết phản đối chủ trương vô tín ngưỡng.

R

Radjpute
[Rajput]: dân miền Rajputana ở Tây Ấn[5].

Raga
: nhạc chỉ.

Rahula
: tên con trai của Phật Thích Ca.

Raja: người thủ lãnh một bộ lạc thời cổ.

Rajah
: tiểu vương Ấn.

Rama
: một hoá thân của thần Vichnou.

Ramayana
: một anh hùng trường ca rất nổi danh thời cổ Ấn Độ.

Rig Veda
: coi Veda.

Rita
: đạo Trời.



S

Sama Veda
: coi Veda.

Samadhi
: (tuệ) giai đoạn thứ tám và cuối cùng để tu yoga: xuất thần.

Samana
: sa môn.

Sankhya
: số luận, môn phái triết có trước khi Thích Ca ra đời (chính nghĩaliệt kê).

Sannyasi
: giai đoạn tu cuối cùng của Bà La Môn: từ bỏ xã hộigia đình.

Sanscrit
: cổ ngữ Ấn Độ ở phương Bắc.

Sarnath
: Lộc Uyển, nơi Phật Thích Ca thuyết pháp lần đầu.

Shah
: tiếng Ba Tư trỏ vua.

Shakti
: năng lực sinh hoá, sáng tạo; cũng trỏ giáo phái thờ năng lực đó.

Shakya Muni
: Thích Ca Mâu Ni (có sách viết là Çakya Mouni).

Shaman
: phù thuỷ.

Sangha: tăng già, đoàn thể tu sĩ trong Phật giáo.

Shankara
: một triết gia, có công lớn với triết thuyết Vedanta, thuộc phái Bà La Môn; người ta coi ông là Kant của Ấn Độ.

Shiva
: một trong ba vị thần tối cao.

Shivaisme
[Shivaism]: giáo phái tôn thờ Shiva.

Shuddhodhana
: Tịnh Phạn, thân phụ của Phật Thích Ca.

Shudra
: tập cấp công nhân, lao động.

Siddharta
[Siddhartha] Tất Đạt Ta, tên tục của Thích Ca.

Sikh
: tên một giáo phái, cũng trỏ những người theo giáo phái đó.

Stupa: cái tháp.

Sutra
: lời bình giải các kinh, có hình thức cách ngôn, người ta thường dịch là kinh.

Sutta
: kinh, một trong tam tạng của Phật giáo.

Swadeshi
: phong trào tẩy chay hàng Anh.

Swaraj
: phong trào tự trị.


blank

Tượng Trimurti

T


Tamul
[Tamil]: thổ ngữ văn chương của miền Nam, có chỗ viết là Tamil[6] hay Tamoul.

Tantra
: cổ thư, chân ngôn.

Tathagata
: Như Lai, tôn danh của Phật Thích Ca, có nghĩa là vị nắm được chân lí.

Tattwa
: thực thể, tát đoả.

Topa
: cũng như stupa, mới đầu trỏ một nấm mồ, sau trỏ cái tháp chứa hài cốt các vị thánh hay hoà thượng.
Trimurti
: tượng thần Shiva có ba mặt[7].

Tripitaka
: tam tạng gồm Kinh, Luật, Luận của Phật giáo.



U

Upanishad
: phần thuyết pháp trong các kinh Veda.



V

Vaisheshika
: thắng luận, tên một triết thuyết.

Vaishnavisme
[Vaishnavism]: giáo phái tôn thờ thần Vichnou.

Vaisya
: tập cấp thương nhân.

Vanaprastha
: giai đoạn tu hành thứ ba của Bà La Môn: ở ẩn trong núi, nhưng vẫn sống với vợ.

Veda
: Vệ Đà hoặc Phệ Đà: các kinh có từ khoảng 1000 tới 500 trước Công nguyên. Nay còn 4 kinh: Rig Veda (Lê Câu Vệ Đà), Sama Veda, Yajur Vệ Đà (Dạ Nhu Vệ Đà), Arthava Veda. Cũng trỏ thời đại các kinh đó xuất hiện.

Vichnou [Vishnu]: một trong ba vị thần tối cao.

Vihara
: tu viện.

Vinaya
: Luật, một trong tam tạng của Phật giáo.

Vishesha
: đặc chất, đặc tính, thắng (phân biệt).



Y

Yajur Veda
: coi Veda.

Yama
: giai đoạn đầu tiên để tu yoga: diệt dục.

Yoga
: Du già, một lối tu khổ hạnh (chính nghĩa là cái ách).

Yogi
: người tu theo yoga.

Yoni
: hình tượng trưng âm hộ, để thờ.

Yuga
: một thời đại bằng một phần tư mahayuga.


[1] Cũng là Quán Thế Âm Bồ Tát trong Phật giáo. (Goldfish).

[2] Chắc là Bhramachari bị in sai mà thành Bhrama-chary, vì trong tiết V – chương V in là Bhramachari, còn bản tiếng Anh cũng phiên âm là: Bhramachari. (Goldfish).

[3] Trong Tiết VI – Chương V, có đoạn: “một triệu fakir (cũng như phù thuỷ)” - Bản tiếng Anh chỉ viết là: “a million fakirs”. (Goldfish).

[4] Có chỗ cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: nghiệp, quả báo. (Goldfish).

[5] Radjpute có chỗ chép là Rajput hoặc Rajpute; Rajputana có chỗ chép là Radjputana. (Goldfish).

[6] Trong sách có chỗ giảng Tamil là xứ của người Tamil. (Goldfish).

[7] Trong tiết II – Chương V, tác giả viết: Người Ấn cho rằng đời sống cũng như vũ trụ, qua ba giai đoạn liên tiếp: sinh, trưởng rồi diệt. Vì vậy có ba thứ thần: thần Brahma, đức Sáng tạo; thần Vichnou, đức Bảo tồn; và thần Shiva, đức Huỷ diệt: đó là Trimurti, tức “ba hình thức” mà tất cả các người Ấn, trừ những tín đồ Jaïn [và Hồi giáo, dĩ nhiên] đều theo”. (Goldfish).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14299)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14349)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13267)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14630)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25218)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27859)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26334)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17223)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15908)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22128)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17127)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24890)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21948)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21718)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25025)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14772)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16605)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18008)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12916)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12694)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13882)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28005)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27165)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14342)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20937)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24171)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28660)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14730)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13281)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16442)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27222)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16070)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21463)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant