Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Sự tích và tu theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13164)
04. Sự tích và tu theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
Sự tích và Tu theo hạnh Bồ Tát QUAN THẾ ÂM

Hôm nay tôi cống hiến quí độc giả tìm hiểu về sự tích, lịch sử và làm sao để tu theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âmmọi người dân Việt, nhất là trong giới Phật tử thường mỗi khi gặp nạn thì hay niệm danh hiệu của ngài "Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn", nhưng thực tế ít ai hiểu rõ về chân lý, sự tích, xuất xứ từ đâu, nguồn gốc của Quan Thế Âm như thế nào. Do đó, tôi mới cố gắng đi sưu tầm, tham khảo các kinh sách để cụ thể hóa ra bài này hầu góp phần trong nền văn hoá Phật Giáo và phổ biến đến quí độc giả bốn phương am tường. (Nếu có gì thiếu sót kính xin quí chư Tăng, Ni cao minh, quí thiện trí thức niệm tình thứ lỗi và xin cung cấp thêm tư liệu cho được phong phú hơn).

Quan Thế Âm tiếng Phạn dịch là “Bodhisattva Avalokitesvara" dịch sang tiếng Hán là Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại… Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Theo kinh Bi Hoa thì ở vào đời quá khứđức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai, thời đó có vua Chuyển Luân Thánh VươngVô Tránh Niệm. Vua có quan đại thầnBảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện. Do đó, Đức Bảo Tạng thụ ký cho Vua (khi đó đã là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này thành Phật hiệu là A Di Đàthế giới cực lạc.

Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng sanh bị khổ não, vì vậy Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệuQuan Thế Âm, còn Bảo Hảitiền thân của Đức Thích Ca Mâu Ni. Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử rằng: "Vì lòng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sanh được cùng về cõi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan Thế Âm…

Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si. Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bithực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài.

TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm… BI là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. Từ là lòng yêu thương, Bi là ra tay giải quyết và dấn thân nỗ lực làm việc để cứu giúp thực tế. Tóm lại Từ Bi: (thuật ngữ) Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là Từ (maritrya, maitri). Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là Bi.

Quán Thế Âm xưa kia Ngài đã thành Phật hiệu là "Chánh Pháp Minh Như Lai". Ngài thị hiện làm Bồ Tát vì muốn đảm đương công tác cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Đức Bồ Tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một bản thể, đồng chung một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đã giác ngộchúng sanh thì còn mê.

Do đó, Đức Quan Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào ngôi của Đức Phật A Di Đà, thì ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là em ngài, con thứ vua Chuyển Luân cũng cùng Ngài đồng thời được Đức Bảo Tạng thụ ký) giúp việc giáo hóa độ sanh cho Đức Phật A Di Đà và 2 Ngài cũng ứng thân xuống Ta Bà trợ giáo cho Đức Thích Ca Mầu Ni.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm có chép lời Ngài bạch với Đức Thế Tôn rằng: "Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có Đức Phật ra đời hiệu là Quan Thế Âm, từ Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu mà vào Tam Ma Đề". Do đó nên biết: Ngài đã phát tâm Bồ Đề từ đời Đức Phật Quan Thế Âm trong vô số hằng hà sa kiếp về trước do nghe Phật truyền pháp, Ngài đã nhận định pháp tu viên thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do ngài khó chứng viên thôngnhĩ căn nên được Đức Phật thụ ký cho ngài danh hiệu Quán Thế Âm một danh hiệuchúng sanhmười phương cung kính chấp trì nhất là trong những lúc nguy hiểm, đau khổ.

Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: "Xưa kia Ngài Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là "Chính Pháp Minh Như Lai". Tiền thân Đức Thích Ca hồi ấy đã từng ở dưới pháp tòa, xung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi". Ngày nay Đức Thích Ca thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi lại: "Một Đức Phật ra đời thì hàng ngàn Đức Phật phù trì".

blank

Tác giả đứng dưới chân tượng Quan Thế Âm ở hồ
thiên nhiên tại chùa trang nghiêm ở New York city.

Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni thì chép lời Ngài bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! con nhớ vô lượng ức kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quan Vương tĩnh trụ Như Lai". Đức Phật ấy vì thương đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn đại bi tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu con mà bảo: "Thiện Nam Tử". Ông nên trụ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi trược ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích yên vui lớn. "Lúc đó con mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền vượt lên chứng đại bát địa".

Mật tông thì theo trong kinh Đại bản như ý nói có 8 vị đại Quan Âm là: 

1.- Viên Mãn Ý, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.
2.- Bạch Y Tự Tại.
3.- Cát La Sát Nữ.
4.- Tứ Diện Quán Âm.
5.- Mã Đầu La Sát.
6.- Tỳ Cầu Chi.
7.- Đại Thế Chí.
8.- Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).

Ngài có đức uy thần công đứclòng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng vì ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho nên giới phụ nữ đặc biệt tín ngưỡng về Ngài. Nên chúng sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ tướng để tiện hóa độ cho phụ nữ. Theo kinh A-Di- Đà nói: Người sanh về cõi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành Phật... Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nữ?

Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên tình Mẹ thương con, Mẹ đối với con là tình thương chân thành, tha thiết nhất khôngtình thương nào sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh.

Mẹ hỡi, mẹ ơi! hỡi Mẹ Hiền!
Chẳng hay hồn Mẹ có linh thiêng

Về đây chứng chiếu lòng con thảo

Đang đốt nén hương vái khẩn, nguyền.

Căn cứ theo hình tướng đã thể hiện và đức tính Quan Thế Âm đã cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, nhân loại được thoát khổ đau ở ta bà này to lớn biết chừng nào!

Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân

Hiếu là độ được đấng thân

Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra

Xem trong biển nước nam ta

Phổ mônĐức PhậtQuan Âm.

Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào: Mật Tông, Tịnh Độ hay Thiền Tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài. Ngài gia hộ, độ trì cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta đều phải niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát" thì được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện.

TU THEO HẠNH QUAN ÂM

Diệu âm, Quan Thế Âm,
Phạm âm, hải triều âm,

Thắng bỉ thế gian âm,

Thị cố tu thường niệm.

Trên đây là sự cầu xin, khấn nguyện như thế chưa đủ, người Phật tử chúng ta phải tự giải thoát lấy mình bằng cách nguyện “Tu Theo Hạnh Quan Âm”. Tu theo hạnh Quan Âm tức là tu theo toàn diện, bao trùm tất cả 4 phương diện bản hữu của cuộc sống: Tâm linh, tâm lý, trí thức và thể xác, trong mối quan hệ đặc thù riêng của mỗi người đối với môi sinh, văn hóaxã hội. Bởi thế theo kinh Hoa-Nghiêm đề cập 3 loại công hạnh:

1.- Hạnh tu trì của thân hay thân hạnh, gồm mọi hành động và lời nói.
2.- Hạnh tu trì của tâm, gọi là tâm hạnh, bao trùm tình cảm, lý trí, tư tưởng.
3.- Hạnh tu trì cho tánh (linh tánh) gọi là tánh hạnh, bao gồm những hạnh mang đặc tính siêu thoát phiền não, gọi là hạnh vô lậu, như tánh từ bi, tỉnh giác, tín tâm, thanh tịnh. Bây giờ ta sẽ xem làm sao để tu được ba hạnh này:

* Thân Hạnh (Hạnh hiện thân và hiển thân)

Hiện thân là hạnh đến với chúng sanh, những ai cần mình đến giúp. Nhiều khi mình chỉ cần hiện diện là đến, đến an lạc cho họ, không cần phải nói năng hay hành động gì cả. Hạnh này bắt nguồn từ đâu? Từ chỗ đức Quan Âm thường luôn hiện thân bất kỳ nơi đâu chúng sinh cầu ngài. Như kinh nói rằng:

Đầy đủ thần thông lực
Rộng tu trí, phương tiện

Mười phương khắp mọi chỗ

Nơi nào cũng hiện thân.

Hiến thân là hạnh dâng hiến sức lực, thể xác để lợi lạc chúng sinh và những người có duyên với mình. Nhìn xung quanh, hẳn ta sẽ thấy vô vàn cơ hội để mình đem lại an lạc cho tha nhân, dù rất ít ỏi, dù chỉ thoáng chốc. Nếu bạn hỏi thế nào là căn bản của đạo Bồ Tát thì câu trả lời là:

Không cầu tự thân được an lạc,
Chỉ mong chúng sinh đều ly khổ.

Giải toả tấm lòng nhỏ nhen ích kỷ, luôn nghĩ đến lợi ích tha nhân, đó chính là bản chất của Bồ Tát, cũng chính là hạnh hiến thân vậy.

* Tâm Hạnh (Hạnh nhu thuận và bao dung)

Theo kinh nghiệm chung, không ai muốn gần kẻ hung bạo, dữ tợn, hay cộc cằn, giận dữ, tu hạnh Bồ Tát là học làm Bồ Tát, học làm người bạn tốt với chúng sinh. Do đó, việc đầu tiên mình cần làm là tập “Nhu hòa, tuỳ thuận” mà trong kinh Hoa Nghiêm gọi là hạnh “Nhu thuận”. Đức Quan Âm là vị Bồ Tát đại biểu cho lòng nhu thuận rõ ràng nhất: Đối với bất kỳ chúng sinh tốt xấu, dữ hiền, ngài vẫn bày tỏ thái độ nhu hòa và tấm lòng bao dung, sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng che chở.

Bao dung không những diễn ta một cõi lòng rộng rãi, biết tha thứ, mà còn bao hàm một tâm thức cởi mở, một vũ trụ quan rộng rãi có thể chứa đựng được quan điểm hay kiến giải của tha nhân. Một khi vũ trụ quan ta nhỏ hẹp thì mình khó chấp nhận được ý kiến, quan điểm hay tín ngưỡng của kẻ khác, mà kết quả là tánh “khó chịu, nhỏ hẹp”. Tu hạnh bao dung là tu “mở rộng vũ trụ quan, mở rộng tầm nhìn, không ngừng khai mở”.

* Tánh hạnh: (Hạnh chân thậttừ bi).

Đức Quan Âmbiệt hiệu là vị “Bồ Tát vô úy”, kẻ làm cho ta hết sợ. Vì sao? Vì ngài chân thật, không dối trá, không bóng tối, không giấu diếm. Bởi thế đối với hạnh Tâm linh, thì chân thật đứng đầu mọi hạnh. Nếu Tâm còn sợ hãi, thì ta sẽ thực hành Hạnh chân thật; thật với lòng, thật với người, với Phật trời, với tánh giác tịch tịnh. Nhưng cẩn thận chớ dùng cách thẳng thắn, chớ dùng tánh thẳng thắn, để làm tổn hại người. Vì rằng, “Nói thật mất lòng” phải lựa lời, lựa lúc, lựa lý, lựa tình mà nói. Vì vậy, tu kèm với hạnh chân thật là hạnh từ bi “Mình lấy tình thương, lòng vị tha làm khởi điểm mọi hành động. Thiếu tình thương, tánh ngay thẳng chưa thể viên mãn. Quá nhiều tình, mà thiếu chân thật; thì cũng không xong! Từ là tánh hiền hòa, diễn đạt bằng lời lẽ và thái độ dịu dàng, bất hại. Bi là tình thương không chiếm hữu, đem an lạc, không đem sợ hãi. Cứu nhưng không sát, giải chứ không kết oán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14873)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17798)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18212)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14991)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13183)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21163)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32580)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15318)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12348)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12833)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27523)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12135)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34947)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17749)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11826)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12648)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14569)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32471)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19460)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14270)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15315)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14143)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53170)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11664)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13926)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13819)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13432)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13615)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34174)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16210)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13564)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15910)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13508)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22971)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27743)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13905)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24972)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13948)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31332)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13863)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15562)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14977)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant