Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Từ BiTrí Tuệ (Con ngườiĐạo Phật, Mê hay Ngộ)

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 15606)
07. Từ Bi và Trí Tuệ (Con người và Đạo Phật, Mê hay Ngộ)

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
TỪ BI và TRÍ TU
(Con ngườiĐạo Phật, Mê hay Ngộ)

Đạo Phậtđạo Từ Bi Hỷ Xả, cứu khổ giải thoátTrí Tuệ giác ngộ bình đẳng với mục đích làm lợi ích an lạc cho chúng sinh, nhân loạimục tiêu chính.

Từ bi hỷ xả: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là TỪ. Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là BI. Đây là 2 trong 4 vô lượng tâm. (Đại Từ Đại Bi thương chúng sinh). Từ còn có nghĩa là hiền lành, phúc hậu, bỏ các điều dữ, làm các việc lành, nhân đức, ăn ở có hậu. HỶ là vui mừng, thường vui vẻ đối với tất cả mọi người; mình làm được điều gì tốt hay thấy người khác làm được các việc lợi ích, tốt đẹp đều lấy làm vui mừng. XẢ là dứt bỏ, dứt bỏ những chuyện thị phi, ác độc, không tốt, không hợp với nhân nghĩa, đạo lý, cần phải cương quyết dứt bỏ, không lưu tâm phiền não. (Đại Hỷ Đại Xả cứu muôn loài)

Thiện căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Cứu khổ giải thoát: Cứu gỡ cả cho mình và cho người cùng được thoát khỏi những cảnh khổ đau, phiền não, thấy người khác đau khổ, uất ức bị chèn ép mình cũng phải chia sẻ cảnh hoạn nạn đó. “Thương người như thể thương thân”. Tìm mọi cách để cứu vớt người ta được thoát khỏi cảnh đau khổ đó, mọi người đều được giải thoát lìa bỏ mọi trói buộc mà được tự tại về cả vật chất đến tinh thần.

Trí Tuệ Giác Ngộ: (thuật ngữ) Janàma, Prajnà. Tiếng Phạn Nhã-na dịch là Trí, Bát Nhã dịch là Tuệ. Quyết đoán là Trí, Tuyển chọn là Tuệ. Còn chỉ biết rõ Tục đế gọi là Trí, sáng tỏ Chân đế gọi là Tuệ. Đại thừa nghĩa kinh, Q.9: Chiếu kiến gọi là Trí, sáng tỏ gọi là Tuệ. Các kinh điển và tất cả các pháp môn của đức Phật để lại không ngoài mục đích làm cho chúng sinh có một trí tuệ sáng suốt, hầu thích ứng với mọi hoàn cảnh trong cuộc sống hàng ngày và nhất là mỗi người đều thoát ra khỏi cảnh mê lầm (vô minh), không mê tín dị đoan, không chạy theo tà ma ngoại đạo. Chủ yếu của đạo Phật là dậy chúng sinh giải thoát mọi khổ đau, muốn được giải thoát phải xây dựng trên nền tảng giác ngộ. Trước phải giác ngộ sau mới giải thoát. Nhận rõ lý nhân qủa và lý nhân duyên đó là tác dụng của trí tuệ.

Sự giải thoát chỉ đạt được trong sự giác ngộ hoàn toàn với lòng từ bi vô lượng. Sự giác ngộ chính là sự phát triển tột đỉnh của trí tuệ, là sự hiểu biết toàn diện. Tâm trí con người bị vô minh phiền não che lấp không nhìn thấy bản tính chân thật của sự vật, sự việc, đã vô minh thì không phân tách được cái nào đúng, cái nào sai, ai nói cũng phải, cái nào cũng hay, không nhạy bén và thích ứng kịp thời được những sự việc khi xảy đến, đó là con người không có trí tuệ. Nếu còn vô minh thì làm sao có trí tuệ. Nhưng nếu chỉ có trí tuệ mà không có Từ Bi thì cũng vô ích con người ấy sẽ đi đến chỗ tự tôn, tự cao, tự đại dễ làm những điều ác. Do đó, từ bi mà không có trí tuệtừ bi què mà trí tuệ mà không có từ bitrí tuệ mù.

Tâm trí của con người bị vô minh phiền não che lấp, không nhận chân được thế nào là sự thật thì đó chính là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ. Sự khổ đau đó chỉ chấm dứt khi nào tâm con người được trong sáng, không còn ngộ nhận, không còn chấp ngã. Quá trình tu tập để phát triển trí tuệ, làm sáng cái đức sáng, thân với nhân tâm thì đạt được hạnh phúc. Tham vọng ích kỷ được chuyển hoá thành vị tha, hận thù được chuyển hoá thành từ bi, mê muội được chuyển hóa thành trí tuệ. Trong quá trình chuyển hóa đó nội tâm được gạn lọc. Những cặn bã vô minh được tẩy trừ, để tâm trí hoàn toàn trong sáng. Đó chính là cao điểm của trí tuệ và sự giác ngộ vậy.

Bồ Tát Quan Thế Âm, trong kinh Phổ Môn, với hạnh nguyện cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, ngài lắng nghe tiếng kêu đau thương của chúng sinh để thị hiện cứu độ. Nơi nào có tiếng kêu đau thương nơi đó ngài thị hiện. Bồ Tát Quan Thế Âm đã phát nguyện “Khi nào trong chúng sinh không còn đau khổ, lúc đó ngài mới nhập niết bàn”. Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện xuống địa ngục để cứu độ chúng sinh với đại nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh vị tận phương chứng Bồ Đề”. (Khi nào địa ngục chưa trống hết thì tôi chưa thành Phật, lúc nào chúng sinh chưa khỏi luân hồi thì tôi chưa chứng Bồ Đề). Với đại nguyện đó Bồ Tát Địa Tạng đã xông pha vào các tầng địa ngục để cứu vớt chúng sinh.

Trong khi đó, từ quá khứ cho đến hiện tại đã có những tôn giáo mệnh danh là các đấng tối cao, thần thánh hóa cá nhân tạo ra những giáo điều để mê hoặc con người thiếu trí tuệ vẫn phó thác thân xác và tâm linh cho một vị thần thánh nào đó được tôn sùng như một vị thiêng liêng tối thượng, có phép lạ mầu nhiệm cứu rỗi và cứu vớt linh hồn được về thiên đàng khi nhắm mắt ngàn thu. Những giáo điều mê hoặc con người đi đến chỗ cuồng tín vào thần quyền, tự xiềng xích mình vào địa ngục của hoang tưởng đó. Sự cuồng tín tôn giáo đã làm cho con người thù hận con người thay vì thương yêu nhau như các giáo chủ đã dậy.

Hãy nhìn lại các cuộc thánh chiến đã xẩy ra tàn khốc giữa Thiên Chúa Giáo với Do Thái GiáoHồi Giáo đã kéo dài hơn ngàn năm, cuộc tàn sát đẫm máu giữa Thiên Chúa và Tin Lành kéo dài hàng trăm năm tại Âu Châu. Ngày nay tại Bắc Ái Nhĩ Lan cuộc xung đột giữa các tôn giáo này vẫn còn đang tiếp diễn. Sự tranh giành ảnh hưởng về tín ngưỡng đó chỉ vì “Con người không được giáo dục bởi lòng Từ Bi và Trí Tuệ”, mà chỉ nhồi sọ cho các tín đồ của họ có một niềm tin mê tín, cuồng tín vào một đấng tối cao của tôn giáo họ thờ phượng.

Phật Giáo đã tự hào suốt dòng lịch sử trên hai ngàn năm trăm năm, trước Thiên Chúa giáng sinh gần 600 năm cho đến nay chưa bao giờ đổ một giọt máu vì nhân danh tín ngưỡng Phật Giáo. Lúc Hồi Giáo tàn sát Phật Giáo tại Ấn Độ vào thế kỷ thứ mười hai, Chư TăngPhật Tử cam tâm chịu chết chứ không chống trả, một số khác chạy trốn ra nước ngoài để rồi đạo Phật truyền ra khắp phương Đông. Ngày nay Phật Giáo bị bách hại tại các nước phương Đông, thế rồi Phật Giáo lại lan tràn khắp phương Tây. Từ ngày Phật Giáo xâm nhập được vào Phương tây thì các nhà trí thức và khoa học gia phương Tây mới nghiên cứu ra được những gì khoa học hiện nay khám phá ra chỉ là đi sau những gì mà Đức Phật đã nói ra từ mấy ngàn năm trước.

Con người với TÂM, THÂN thiện và ác, nếu được giáo dục bởi lòng Từ Bi thì con người có tâm thiện và nếu được giáo dục bởi sự hận thù tranh chấp cuồng tín thì con người sẽ trở nên hung dữ và độc ác, đức Khổng tử đã nói “Nhân chi sơ là tính bổn thiện” hay Nho Giáo cũng có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” (mực đây là mực tầu để viết chữ nho). Đức Phật ra đời như một thách đố của con người với thần linh và sự thành đạo của Ngài như một sự trưởng thành của tâm thức nhân loại. Ngài đã siêu việt hoá khả năng vô biên của tâm linh để con người từ nay vĩnh viễn làm chủ vận mệnh của mình. Với nỗ lực của chính mình con người tự giải thoát mình ra khỏi sự đau thương cả vật chất lẫn tinh thần.

Nếu diễn đạt hết ý của bốn chữ “Từ Bi và Trí Tuệ” phải viết cả một quyển sách khoảng 500 trang giấy chưa đủ. Trong phạm vi bài này tôi chỉ tóm lược với đại ý.

Mục đích của đạo Phật là lấy từ bitrí tuệ làm kim chỉ nam cho việc tu tập hầu mở mang trí tuệ mới đi đến giác ngộ, có giác ngộ mới không mê lầm, không u minh. Chủ đích của đạo Phật là khuyên dậy và đào tạo cho con người thoát khỏi cảnh Vô Minh, lúc đó con người mới nhận thức được đâu là chính và đâu là tà, để tránh những cảnh lừa gạt bởi các giáo điều mê tín, dị đoan làm cho con người cuồng tín chỉ biết cầu xin, với đấng tối cao hão huyền nào đó.

Đức Phật đã cho chúng ta thấy rằng: chỉ có chính mình mới giải thoát được cho mình ra khỏi nỗi thống khổ, không một thần linh nào có thể thay đổi được vận mạng của con người do chính mình tạo ra. Đạo lý về Nghiệp (nghiệp báo) đã thấy rõ, làm ác thì phải gặp quả báo. Sự hạnh phúc hay khổ đau là do chính mình tạo ra, đừng bao giờ nghĩ đến việc đi cầu xin, van vái các đấng tối cao hoặc thần thánh nào đó để hy vọng được sự cứu rỗi hay phù hộ cho mình được thoát khỏi cảnh lầm than, đau khổ mà do chính mình đã tạo nên. Con ngưởi phải làm chủ lấy vận mạng của mình. Vì mê lầm chúng ta tự tạo ra một thần linh để rồi trở lại nô lệ cho một thần quyền ảo tưởng đó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34413)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16889)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22999)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13074)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22000)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22245)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14890)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23634)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24177)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23703)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17176)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19394)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27123)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14441)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13868)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22722)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14781)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17393)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12702)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13894)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10436)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14734)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17225)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12577)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12748)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10391)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28739)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11157)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16908)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15801)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12579)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11399)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19339)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12287)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28679)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10081)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21612)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12818)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17861)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26320)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11736)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10877)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22801)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12078)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10628)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11430)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11550)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant