Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Con người, Thiện và Ác

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12462)
09. Con người, Thiện và Ác

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
CON NGƯỜI, THIỆN VÀ ÁC

Dân tộc Việt Nam từ ngày lập quốc, đã trải bao thế hệ. 18 đời Vua Hùng Vương đã tạo dựng Đinh, Lê, Lý, Trần... để bảo vệ và phát huy nền văn hóa cho các từng lớp nhân dân, mà con người là “Linh ư vạn vật”. Trời, Phật đã ban cho con người có bộ óc siêu việt, chúa tể muôn loài, Trời, Phật lại ở trong lòng ta. Phật tại Tâm, người là một vũ trụ thu gọn, nên ông bà ta thường nói: “Vũ trụ giai bị ư ngã, phản thân nhi thành lạc mạc đại yên”. Tức là Vũ Trụ ở trong ta mọi việc đều an vui.

Bản chất thật của con người vốn chí thành, ông bà ta thường nói “Chí thành thông thánh”. Lại nói: “Thành giả thiên chi đạo giả”, tức thành là đạo Trời Phật vậy. Khi tôi còn thơ ấu, cắp sách đến thầy Đồ Nho, đó là ông Bác, anh của Bố tôi. Ông thường dậy tôi rằng: Làm người phải sống cho ra người, đói cho sạch, rách cho thơm. Người như ngọc, nhưng ngọc mà không dũa cũng trở thành vô dụng, tức là người tuy là “Linh chi vạn vật” nhưng người phải được giáo dưỡng mới ra con người. Đạo làm ngườicăn bản cho nền giáo dục, không theo được đạo làm người thì cũng không thể theo được các Đạo Phật, Đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa, Tin Lành...

Thầy tôi còn dậy: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Có học mà không có hạnh con người cũng vô dụng. Phải học lễ phép trước, biết tôn sư học đạo, biết các lễ nghi gia giáo, biết tôn ty trật tự, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em... Cho nên các cụ thường nói phải “Kính trên nhường dưới, kính lão đắc thọ, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn, con chim có tổ, con người có tông”. Nền giáo dục của Á Đông và nhất là đối với dân tộc Việt Nam là như vậy. Đó chính là đạo làm người vậy. Không thể viện dẫn bất cứ một lý do nào đó, để tự hủy diệt nền văn hóa của tiền nhân để lại.

Nền giáo dụccăn bản để tạo cho con người phải biết có TÂM và THÂN, hay thể xác và tinh thần, vì con người ngoài tính người hay được gọi là nhân tính, thiên tính, còn có xã hội tính, hợp quần tính và dân tộc tính. Giáo dụctu luyện hoàn hảo của con người để hướng thượng. Đức Phật Thích Ca đã tu thành Phật, nhưng ngài lại trở lại nhân gian với hạnh Bồ Tát, để cứu giúp chúng sanh, truyền bá đạo pháp của ngài, để giáo dục con người ác độc trở thành con ngườibản ngã lương thiện, biết tu tâm, tích đức, làm lành, lánh dữ. Đức Phật cũng đã dậy cho ta rằng: "Lấy ân báo oán thì oán tiêu tan, lấy oán báo oán thì oán chồng chất” hay Khổng Tử cũng đã truyền lại cho ta rằng “Oan oan tương báo, ác giả ác báo” Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.

Lão Tử: Về hiện tượng học, Lão Tử đã dậy rằng:

“Người Đức cao” là người đạt Đạo, là chính Đạo, Đức là sự thực hiện Đạo. Người Đức cao có Đạo trong mình và không cần thực hiện Đạo hay “không có Đức”. Nhưng chính vì thế ông có Đức; Đức nằm sẵn trong ông rồi.

“Người Đức thấp” chưa hoàn toàn làm một với Đạo, nên cần phải có Đức hay thực hiện Đạo. Ông chưa có Đức nằm sẵn trong lòng Ông.

Người đức cao không làm, và không có gì để làm.
Người đức thấp làm, và có cái để làm.
Người nhân cao làm, và không có gì để làm.
Người nghĩa cao làm, và có cái để làm.
Người lễ cao làm, và không được đáp ứng, cho nên xắn tay áo bắt người ta theo.

Lão Tử phân biệtmô tả tiến trình sa đọa từ người có Đức cao đến người có lễ cao.

Người Đức cao không làm, và không có gì để làm. Ông làm một với Đạo và không có gì để làm nữa.

Người Đức thấp còn làm hay thực hiện Đạo và thấy có chỗ để thực hiện Đạo. Ông chưa thấy Đạo với mình là một.

“Người nhân cao làm”. Làm ở đây là thực hiện Đức nhân hay Đạo. Ngài thấy đời thiếu Nhân và muốn đem Nhân vào đời. “Và không có gì để làm”: Ngài không có những cái thuộc lãnh vực vật chất để làm. Người ta hay cắt nghĩa “Không có gì để làm” là “làm theo ý riêng tư”. Nhưng đâu là ý riêng tư của người Nhân?

Người nghĩa cao làm là làm theo những qui luật đạo lý của xã hội. Ai không theo sẽ bị người lễ cao xắn tay áo bắt phải làm theo. Lão Tử không nói người lễ cao, người nghĩa cao, người nhân cao, người Đức thấp là xấu. Họ tốt nhưng chỉ không tốt bằng người Đức cao. Cho nên sau khi mất Đạo, người ta tìm đến Đức.

Sau khi mất Đức, người ta tìm đến Nhân.
Sau khi mất Nhân, người ta tìm đến Nghĩa.
Sau khi mất Nghĩa, người ra tìm đến Lễ.
Lễ là cái vỏ mỏng của Trung Tín và là cái đầu của loạn.

Như vậy Lão Tử xếp theo thứ tự từ trước đến sau như: “Đạo, Đức, Nhân, Nghĩa, Lễ”. Đức là Đạo thể hiện nơi hành vi của con người và ở dưới Đạo. Khi nói đến Đức là nói đến thực hiện Đạo. Có mất Đạo mới nói đến việc thực hiện Đạo. Nhân, Nghĩa, và Lễ, Lão Tử xếp sau Đức. Con người đã sa đọa từ Đạo đến Lễ. Khi Trung Tín không còn nữa, người ta nói đến Lễ. Khi loạn lạc bắt đầu người ta nói đến Lễ.

“Biết trước” là hoa (vẻ đẹp bên ngoài) của Đạo, và là khởi thủy của dốt nát.

Cho nên bậc đại trượng phu ở chỗ hậu hĩ chứ không ở chỗ đạm bạc, “ở chỗ quả chứ không ở chỗ hoa”.
Cho nên ngài bỏ cái ở ngoài, mà giữ cái ở trong. 
“Biết trước” là sự biết về sự vật. Lẽ dĩ nhiên phải có Đạo xuất hiện, người ta mới biết về sự vật. Nhưng tự nhiên con người biết về sự vật mà không cần suy tư. Đó là sự biết trước khi suy tư. Sự biết về sự vật đặt nền tảng trên sự biết về Đạo. Vì thế nói sự biết trước là hoa, hay vẻ bề ngoài của Đạo. Nó là khởi thủy của dốt nát, vì nó trở nên sự biết duy nhất, người ta vì nó bỏ quên mất Đạo. Những người trượng phu hay người hiểu biết đích thực cư ngụ nơi chỗ hậu hỹ hay qủa (Đạo) chứ không ở chỗ đạm bạc hay hoa (sự vật).

Trên đây tôi trích một đoạn hiện tượng học của Lão Tử để quí độc giả suy nghiệm và liên hệ đến đời sống hàng ngày của mình mà tu tập hầu cải tiến cho phù hợp với đời sống cá nhân, gia đìnhxã hội mà mình hiện đang sống. Mọi người chúng ta nên luôn luôn ghi nhớ là “Đạo Đức” là kim chỉ nam cho cuộc đời của chúng ta, nếu con người không có Đạo Đức thì con người sẽ trở nên độc ác và tàn bạo, chỉ với lòng tham lam, sân hậnsi mê, cho nên Mạnh Tử đã phát huy học thuyết Khổng Tử và khuyên dậy cho chúng ta rằng: “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân”. Đạo không thể xa người, người không thể xa Đạo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10209)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11270)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13607)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13758)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22254)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21887)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27422)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17819)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11752)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12338)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25264)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23312)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28624)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22808)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25749)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22336)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14022)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13454)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22530)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26428)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18507)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18984)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34559)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27421)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28469)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21432)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14926)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19234)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10637)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18596)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15687)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13203)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13436)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14047)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11813)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11648)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11360)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11917)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19959)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12413)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13960)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13283)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32020)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13454)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12768)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13347)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11910)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21900)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11111)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12917)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant