Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Miến Điện và Phật giáo

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13715)
01. Miến Điện và Phật giáo
MIẾN ĐIỆN VÀ PHẬT GIÁO
Thích Như Điển

Miền Bắc giáp Bangladesh, Ấn Độ, Trung Hoa. Miền đông giáp Lào, Thái Lan. Miền Nam giáp Mã Lai Á và miền Tây giáp với biển Ấn Độ. Một dải giang sơn trải dài qua các đồng bằng, núi non và biển cả. Miến Điện có lịch sử hơn 3000 năm tồn tại và phát triển. Ngày xưa Miến Điện được gọi là Bumua và ngày nay là Myanmar.

Đến thế kỷ thứ 12 Phật Giáo đã trở thành quốc giáo cho đến thế kỷ thứ 19. Từ khi Phật Giáo được du nhập vào cho đến nay đã gần 2,500 năm lịch sử và chùa chiền, tháp thờ xá lợi, tu viện v.v… đã có đến 13,000 ngôi. Đến năm 1287 khi Mông Cổ xâm chiếm nước này, những ngôi chùa nổi tiếng đã bị đập phá và hiện nay chỉ còn độ 2,000 ngôi chùa danh tiếngdĩ nhiên những chùa viện khác còn tồn tại cũng không phải là ít.

Kinh đô của Miến Điện là Yangoon hay Rangon. Tiếng Hoa gọi là Ngưỡng Quang. Đây là cách đọc và dịch theo âm của người Hoa. Ví dụ như Bangkok viết là Vọng Các. Vientane viết là Vạn Tượng. Thật sự ra cách phiên âm như thế cốt cho dễ đọc, chứ không có một ý nghĩa gì cả. Nếu có, chẳng qua là sự trùng hợp mà thôi. Cũng như người Lào tin rằng chữ Vientane dịch ra Vạn Tượng là đúng. Vì đây ám chỉ cho một xứ sở có đến hơn 10,000 con voi.

Đã từ lâu, tôi có ý muốn đi viếng thăm xứ Miến Điện một chuyến. Vì khi đến đảnh lễ Kim Cương tòa nơi đức Phật Thích Ca thành đạo có nhiều sự kiện làm cho tâm tôi tự dưng se lại; trong đó có liên hệ với Miến Điện và Trung Hoa.

Khi khách hành hương rời khỏi gốc cây Bồ đề nơi Bồ Đề Đạo Tràng đi về hướng đông cách đó không xa, sẽ gặp một trụ đá lớn, trên đó có khắc những dòng chữ bằng tiếng Sanskrit và tiếng Anh như sau “sau tuần lễ thiền định thứ ba, sau khi đức Phật thành đạo, Ngài đã gặp 2 người thương nhân Miến Điện đến đây cúng dường bánh làm bằng gạo và mật ong. Tiếp đến họ xin quy y Phậtquy y Pháp (vì lúc đó Tăng già chưa thành lập)”.

Đã bao lần tôi đến chốn này và mơ ước được sang xứ Miến Điện để đảnh lễ mười sợi tóc mà Ngài đã tặng cho 2 người thương nhân này và kể từ đó, sau khi về lại nước, họ dâng lên vua chúa đương thời và được thờ tự rất trang nghiêm tại 2 chùa ở Miến Điện. 8 sợi tóc của đức Phật được thờ tại chùa Vàng Schwedagon gần Rangoon và 2 sợi tóc khác thờ tại một hòn đá thiêng ở Kyaitiyo, cách Rangon chừng 200 cây số về hướng nam.

 Phái đoàn của Thượng Tọa Tiến sĩ Seelawansa gồm các vị học giả, bộ trưởng giáo dục Phật Giáo tại Tích Lan hướng dẫn và chúng tôi tháp tùng cùng phái đoàn này đi từ Bangkok đến Yangoon bằng Bangkok Airways. Có ai đó đến xứ Thái Lan, Tích Lan, Lào và Miến Điện rồi, mới thấy Phật Giáo tại các xứ này là quốc giáo. Vì lẽ trên từ vua quan, dưới cho đến thứ dân ai ai cũng tôn sùng đạo Phật. Ngày nay tại phi trường mới của Thái Lan những hình ảnh hội họa của Phật Giáo được trưng bày nhan nhản đó đây. Ví dụ như những bức họa danh tiếng khi Thái Tử Tất Đạt Đa xuất giaTứ Thiên Vương nâng tay đỡ bốn chân của ngựa Kiền Trắc, hình hoa sen, tượng Hộ Pháp, các chùa tháp v.v… một phi trường mới hiện đại nhất Á Châu ở đầu thế kỷ thứ 21 này mà Phật Giáo vẫn được vinh danh như thế. Quả là một dân tộc rất hài hòa theo tinh thần Từ biTrí tuệ của đạo Phật.

Khi chư Tăng đến phi trường, dẫu cho đó là Nam tông hay Bắc tông (nếu mặc hậu vàng), sẽ có những nhân viên làm việc tại đó đến đón, quí Thầy đến cổng diplomatic dành riêng cho những nhân viên ngoại giao, gần như quốc khách để được đóng dấu nhập nội Thái Lan và khi đi ra khỏi Thái Lan cũng như thế.

Hôm đó là ngày 13 tháng 11 năm 2006, chuyến bay Bangkok Airways đã để cho hành khách Âu Mỹ đi một chiếc xe bus lớn ra máy bay. Còn chúng tôi được đưa ra sân bay bằng một chiếc xe du lịch khác để lên máy bay trước. Những tiếp viên du lịch rất lịch sự, nhã nhặncung kính chào bằng đóa sen búp, tặng cho người đối diện. Sau khi an vị chỗ ngồi, nữ tiếp viên đến cung kính hỏi thăm và dâng nước uống qua trung gian là cái khay, chứ không trực tiếp đưa từ tay này qua tay khác đến chư Tăng. Đây là lối tiếp cận theo giới luậtchư Tăng các xứ Nam Tông bao đời đã gìn giữ. Thật quý hóa và đáng trân trọng biết là bao.

Khi đến phi trường Rangoon chúng tôi được bà tham vụ Đại Sứ của Tích Lan ra lo Visa và đi vào hướng của những nhân viên ngoại giao đoàn để nhận hành lý. Lúc ấy Đại Diện bên Bộ Giáo Dục của Miến Điện cũng đã đến chào phái đoàn. Sau khi ra khỏi quan thuế, chúng tôi gặp Thầy Hạnh Bảo đã có mặt sẵn tại đó và đoàn chia ra làm 3 nhóm nhỏ. Một nhóm đi về khách sạn, nhóm khác đi về Sứ Quán Tích Lan và nhóm kia đi về Bộ Giáo Dục.

Ngày hôm sau (14.11.2006) chúng tôi được đi xem ngôi chùa lịch sử Schwedagon ở thủ đô Yangoon. Ngôi chùa này đang thờ 8 sợi tóc của đức Phật và đây cũng có thể gọi là một kỳ quan của thế giới và của Phật Giáo cũng không hổ thẹn chút nào. Có 4 lối đi vào chùa và mỗi lối đi đều được che chắn bởi những mái chùa. Đồng thời những trụ cột cũng được chạm trổ rất tinh vi. Càng đi càng tiến lên cao và ở một độ cao trung bình thì đã thấy được chân của tháp. Tháp chính cao 58 mét và đường kính chừng 300 mét. Toàn thân tháp đều lợp ngói vàng. Nghĩa là những tấm vàng lá được thay thế ngói để lợp lên mái tháp để chống chọi với gió sương hơn 2000 năm lịch sử như vậy. Chùa này chính thức được sửa lại vào năm 1755 và đến năm 1823 mới hoàn thành. Hiện nay trên tháp có trang trí 5,400 viên kim cương loại 76 carat và 2,300 viên cẩm thạch quý, cùng với pha lê, bảo châu hợp thành, gần giống trong kinh A Di Đà diễn tả về thế giới Cực Lạc như vậy. Ai đến đây cũng với tâm thành kính, nên những thùng tiền cúng dường để đầy khắp các chùa mà vẫn không bị mất cắp. Mặc dầu dân của họ rất nghèo, nhiều người tự nghĩ: tại sao chùa vàng có chạm ngọc, kim cương như thế mà không bị mất cắp? Dĩ nhiên ở đâu lại chẳng có người tham lamích kỷ. Tuy nhiên không phải họ sợ luật pháp, mà họ sợ nhân quả; nên họ đã không giở ngói chùa. Nếu ở một nước kém đạo đứclòng tin Phật không cao, thì chắc chắn những mái ngói bằng vàng ấy và những viên kim cương kia chưa chắc còn tồn tại mãi cho đến ngày nay. Người ta có lẽ tin rằng, luật pháp của thế gian họ có thể qua mặt được, nhưng nhân quả theo đạo Phật thì không bỏ sót một ai và vì họ hiểu rõ nhân quả nên họ đã chế ngự lòng tham. Đó là một kết quả tốt của một đất nước theo Phật giáo và họ đã ứng dụng đời sống tâm linh của Phật giáo trong cuộc sống hằng ngày như vậy.

Đến mỗi nơi Thầy trò chúng tôi đều đảnh lễcúng dường như bao nhiêu người Miến khác. Họ thấy chúng tôi lạ và có hỏi đến từ đâu. Tôi trả lời rằng, chúng tôi là người Việt Nam, nhưng đang sinh sống tại Âu Châu. Những cái nhoẻn miệng cười là những cái đáp lễ của người đối diện. Có một nơi thờ Phật như bao nhiêu điện Phật khác; nhưng lại có rất nhiều người đang đứng sắp hàng quạt Phật để tạo ra công đức. Tôi không biết tích này từ đâu ra nhưng đại khái như thế này. Mỗi người khi vào đây lễ Phật xong, họ cầm sợi dây kéo dài từ trên trần xuống đất và trên trần nhà ấy chính là trên đầu của đức Phật có làm một tấm chắn bằng vải chiều ngang độ 5 tấc và chiều dài độ 3 thước. Ở hai đầu họ cột hai sợi dây buông dài xuống đất và cứ như thế mỗi lần 2 người kéo dây thì bên trên tấm trướng ấy sẽ quạt cho Phật. Việc này không biết ai nghĩ ra, nhưng đây cũng là một hình ảnh đẹp khi Phật tử đến cầu nguyện ở chùa này. 

Sau đó chúng tôi vào viện bảo tàng của chùa, nơi đây tập trung rất nhiều đồ cổ từ nhiều đời và đặc biệt đã biết rõ được cách lợp ngói vàng lên tháp như thế nào; những ai đã cúng và những gì đã được lưu trữ cả mấy ngàn năm nay. Tự dưng tôi dừng lại trước một khung cửa kiếng trong ấy có để 3 tấm sơn mài Việt Nam. Một tấm với kích thước nhỏ có hình chùa một cột. Một tấm khác phong cảnh vịnh Hạ Long và một đĩa sơn mài khác để trên giá. Dẫu sao cũng có được một chút an ủi như là “tha hương ngộ cố tri” vậy.

Bước ra khỏi viện bảo tàng chúng tôi gặp dân chúng đang lễ bái và ném tiền vào tượng Phật bằng ngọc thạch xanh rất nổi tiếng. Tượng cao cỡ đầu người thường và rất linh thiêng. Nơi đây được rào cản nghiêm ngặt để phòng ngừa những kẻ tiểu tâm. Khi đoàn đến một nơi khác lễ bái được người hướng dẫn kể rằng: “Dầu Thầy đứng ở bất cứ nơi nào và hướng nào, tượng Phật ấy vẫn dõi mắt theo Ngài đấy. Đó là do lời cầu nguyện của Ngài được tương ứng. Nếu không, tượng ấy sẽ không nhìn Ngài. Đây có thể là một lối giải thích chung chung, có tính cách đại chúng, chứ không phải nơi giáo lý của Phật đà. Đã là Phật và Bồ Tát thì làm sao có thể phân biệt chúng sanh như thế được. Khi chúng sanh khổ đau mới đến trước chân Phật để nguyện cầu. Trong khi đó Phật lánh mặt làm ngơ thì làm sao thể hiện hết lòng từ bi lân mẫn để cứu độ chúng sanh khi còn ở trong cõi đời ngũ trược ác thế này nữa…

Lý do thứ hai mà cá nhân chúng tôi muốn đến viếng thăm xứ Miến Điện này. Vì lẽ khi dịch Đại Đường Tây Vức Ký được chính Ngài Huyền Trang biên khảo vào năm Trinh Quán thứ 19 và năm Ngài 51 tuổi, tức nhằm năm 646 tại Ngọc Hoa cung và may mắn cách đây 3 năm tôi đã chuyển dịch tác phẩm này từ tiếng Hán sang tiếng Việt có những đoạn viết cũng như mô tả rất rõ ràng về đoạn của 2 người thương nhân Miến Điện này. Ngài Huyền Trang thuật lại như sau:

“Có 2 người thương nhân Miến Điện bị đắm thuyền ở phía Nam Ấn Độ và họ đã cầu cứu với những đấng thiêng liêng. Sau đó họ thấy một vùng ánh sáng chói lòa ở cách xa họ và thế là họ nương theo ánh sáng ấy để đi tìm. Khi đến họ gặp đấng Điều Ngự và sau khi cúng dường bánh làm bằng gạo cũng như mật ong, họ đã xin quy y với Ngài và sau khi quy y họ xin Ngài có vật gì kỷ niệm cho họ để họ mang về quê hương của họ. Đức Phật đã đưa tay lên đầu và vuốt xuống một nắm tóc trao cho 2 thương nhân người Miến và họ đã đem về quê hương họ để tôn thờ…

Đại để nội dung của chương nói về xứ Ma Kiệt Đà có dẫn dụ như vậy. Khi Ngài Huyền Trang đến đây thì Ngài đã cảm động rơi nước mắt và thán lên rằng:

“Phật tại thế thời ngã trầm luân

Kim đắc nhân thân Phật diệt độ

Áo não tự thân đa nghiệp chướng

Bất kiến Như Lai kim sắc thân”

Dịch

“Lúc Phật ở đời con trầm luân

Nay được thân người, Phật diệt độ

Đau xót thân mình nhiều nghiệp chướng

Chẳng thấy thân vàng của Như Lai”

Ở đây chúng ta có thể hiểu được tâm trạng của Ngài, của 2 người thương nhân Miến Điện và ngay cả của chính mình nữa. Nơi đây được gọi là Thánh địa (holy place) hay động tâm. Tâm của chúng ta xúc động, khi chúng ta đến trước kim cương tòa và đúng là chúng ta là những người có phước báu lắm mới có được những phước duyên như vậy. Ngoài ra ánh hào quang của Đức Phật thưở ấy phải nói là sáng chói lắm. Vì từ bờ biển phía Nam xứ Ấn Độ, hướng đến Bồ Đề Đạo Tràng ước chừng hơn 500km, mà 2 người thương nhân Ấn Độ còn trông thấy và cảm nhận được từ lực của Phật mà đến để xin quy y thì quả rằng cái trí tuệ siêu việt, cái hào quang sáng chói ấy đã soi khắp thế gian cho tới hang cùng ngõ hẻm và các cõi khổ đau khác trong chốn đọa đày này.

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn tập một, đức Phật có huyền ký rằng: “Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào đi đến được bốn nơi mà Như Lai đã thị hiện Đản sanh, Thành đạo, thuyết pháp lần đầu tiên và nơi ta nhập Đại Bát Niết Bàn thì cũng giống như là gặp Như Lai khi còn tại thế…”

Rõ ràngbáo thân Phật ngày nay không còn nữa, nhưng pháp thânhóa thân của Phật thì vô khứ vô lai, không còn không mất và bất cứ nơi đâu chư Phật và chư Bồ tát cũng có thể thị hiện cả để cứu độ quần sanh. Thật là bất khả tư nghìbất khả thuyết.

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn tập hai Phật khẳng định rằng những kẻ nhứt xiển đề và những kẻ phạm tội ngũ nghịch cũng có khả năng thành Phật mà điều này trong kinh A Di Đà, hay lời nguyện thứ 18 của đức Phật A Di Đà cũng như trong kinh Báo Ân Phụ Mẫu chưa chuyên chở được nội dung cao cả như thế. Vì sao vậy? Vì đức Phật lập luận rằng: Tất cả các pháp đều bất định, cho nên Nhứt xiển đề và những người phạm tội ngũ nghịch cũng có tính không nhứt định. Nhứt xiển đề cũng có khả năng thành Phật. Vì nhứt xiển đề nếu có lòng tin Tam Bảochơn như Phật tánh ấy sẽ hiện về và sẽ trở thành Phật. Vì cái đúng của ngày hôm qua cũng có thể là cái sai của ngày hôm nay và cái sai của ngày nay cũng có thể là cái đúng của ngày mai. Đó là lối định nghĩa về các pháp bất định trong kinh Đại Bát Niết Bàn tập hai.

Khi đọc, tụng và hành trì mỗi chữ mỗi lạy trong Kinh Đại Bát Niết Bàn tâm tôi đã xúc động, toát mồ hôi. Vì lẽ tâm Đại Từ Bi của chư Phật rộng rãi quá mà tâm niệm của chúng sanh thì hẹp hòi quá, cứ khư khư cố chấp cho mình là phải, kẻ khác là trái và nhất là không tin kính Tam Bảo cho nên mới bị lưu xuất vào chốn Tam đồ. Do sự ngưỡng mộ này mà tôi đã tìm đến các xứ có thờ xá lợi của Phật để đảnh lễ. Đây cũng là lý do của chuyến đi này.

Nếu ai đó có đọc quyển “giữa chốn cung vàng” thì đã rõ về Xá lợi răng của đức Phật đang thờ tại Kandy Tích Lan và ai đó đã đọc “Lòng Từ Đức Phật” thì đã rõ về Tứ Động Tâm nơi đức Phật đã trải qua 80 năm lịch sử của đời Ngài. Ngoài ra chúng tôi cũng đã đi hành hương về Trung Quốc nơi các bậc Tổ sư thị hiện qua các cuốn: “Theo dấu chân xưa” và “Vọng cố nhân lầu” mà chúng tôi đã sưu tập biên khảo lại, nhằm giới thiệu cho các Phật tử khắp năm châu, trong cũng như ngoài nước, chia sẻ với chúng tôi về những thể nghiệm của bản thân sau khi đi chiêm bái những thánh tích ấy về.

Ngày 15 tháng 11 năm 2006, phái đoàn chúng tôi đã rời Miến Điện về lại Thái Lan và đổi máy bay để tiếp tục cuộc hành trình sang xứ Úc. Đến chùa Pháp Bảo vào rạng sáng ngày 16 tháng 11. Ngồi nơi thư phòng này tôi ghi vội lại những ý tưởng nơi đây sau khi đi thăm Miến Điện về để đăng trên đặc san Pháp Bảo số Xuân Đinh Hợi 2007 như là một sự tạ ơn Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và chư Tăng Ni chúng của chùa Pháp Bảo đã cưu mang Thầy trò chúng tôi trong 3 mùa nhập thất vừa qua, đã dịch và viết được một số tác phẩm để lại cho đời. Năm nay tôi ở lại Úc hơn 2 tháng rưỡi để hoàn thành tác phẩm thứ 48 với tựa đề là: Tịnh Độ Tông Nhật Bản. Đây là một dịch phẩm khó và tôi sẽ cố gắng hoàn thành việc dịch thuật cũng như chuyển ngữ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt để độc giả khắp nơi có những tư liệu tham cứutu học.

Ơn nghĩa thì nghìn trùng mà khả năng lại giới hạn, nên tôi mong rằng quí vị đọc văn tôi, hãy nhớ ý quên lời và xin cảm thông cho những sự vụng về của tôi khi muốn diễn tả một ý gì mà không rõ ràng, khiến cho quí vị nheo mày thì lỗi ấy do tôi vậy.

Xin chắp cánh cùng bay về một phương trời đã định sẵn. Nơi ấy đang có những thiện hữu tri thức, chư vị Bồ Tát và chư Phật đang chờ đợi chúng ta từ bao nhiêu kiếp rồi. Hãy nhanh chân lên, đừng chậm trễ nữa, hỡi những hành giả đang phát nguyện tu tập.

Viết xong vào chiều ngày 17 tháng 11 năm 2006 tại thư phòng chùa Pháp Bảo
vào một ngày đầu hạ của xứ Nam Bán cầu.

Thích Như Điển
(Tu Viện Quảng đức)

Người gửi bài: Tâm Minh 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34424)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16892)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23006)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13076)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22007)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22253)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14893)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23639)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24181)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23723)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17180)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19397)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27126)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14442)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13869)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22731)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14795)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17394)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12706)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13898)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10440)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14735)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17227)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12581)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12752)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10391)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28741)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10732)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11159)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16909)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15802)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13362)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12586)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11403)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13054)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19341)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12291)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28683)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10083)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21618)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12820)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17862)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26323)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11739)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10880)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22806)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12079)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10631)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11431)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11551)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant