Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Thiệu Các Tác Giả

25 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10930)
Giới Thiệu Các Tác Giả

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

GIỚI THIỆU CÁC TÁC GIẢ

VINCANNE ADAMS là giáo sư trợ giảng khoa Nhân Chủng học tại Đại Học Princeton. Bà nhận văn bằng Tiến Sĩ tại Đại Học California-Berkeley năm 1989, và đã nghiên cứu, viết về con người và sự ứng dụng của ngành y ở Tây Tạng và Nepal từ năm 1982. Bà là tác giả của Tigers of the Snow and Other Virtual Sherpas, Doctors for Democracy.

TESSA J. BARTHOLOMEUSZ là giáo sư khoa tôn giáođại học Tiểu bang Florida. Bà nhận văn bằng Tiến sĩ tại đại học Virginia năm 1991, với đề tài về các nữ tu ở Tích Lan hiện nay. Ngoài một số các bài viết và tóm tắt, bà cũng viết một số sách, trong đó có Women under the Bo Tree: Buddhist Nuns in Sri Lanka, và đồng biên tập sách Buddhist Fundamentalism and Minority Identities in Sri Lanka.

 

blankMARTINE BATCHELOR sinh tại Pháp năm 1953. Năm 1972, bà được thọ giới xuất gia tại Đại Hàn. Bà đã nghiên cứu về Phật giáo dưới sự hướng dẫn của lão sư quá cố Kusan tại tu viện Songgwang Sa cho đến năm 1984. Công phu tu tập và hành thiền đã đưa bà đến các ni việnĐài LoanNhật Bản. Từ năm 1981, bà trở thành thông dịch cho Sư Kusan và theo ngài đi hoằng pháp khắp nước Mỹ và Pháp. Bà đã dịch quyển sách “Pháp Hành Thiền Đại Hàn” ('The Way of Korean Zen') của ngài. Sau khi lão sư Kusan mất, bà đã hoàn tục và rời bỏ Đại Hàn.

Năm 1985, bà cùng chồng, Stephen Batchelor, trở về Âu châu. Bà làm giảng sưtư vấn về tâm linh ở Chùa Gaia House cũng một số nơi tại Anh quốc. Năm 1992, bà đồng biên tập và xuất bản quyển “Phật giáo và Môi trường” (Buddhism and Ecology). Năm 1996, bà biên tập và xuất bản “Bước Sen” (Walking On Lotus Flowers). Bà là tác giả của các sách “Nguyên Tắc Thiền” ('Principles of Zen'), “Suốt Đời Hành Thiền” ('Meditation for Life' ), vân vân.

Bà nói tiếng Pháp, Anh, Đại Hàn và có thể đọc Hán tự. Bà rất thích các đề tài về hành thiền trong đời sống hằng ngày, về Phật giáo và các hoạt động xã hội, các vấn đề về tôn giáonữ giới, Thiền và lịch sử thiền, sự kiện và huyền thoại. Hiện bà sống cùng chồng tại Pháp.

 

TỲ KHEO NI THUBTEN CHODRON là một nữ tu sĩ Phật giáo Tây phương theo truyền thống Tây Tạng. Bà nhận văn bằng Cử nhân tại đại học California-Los Angeles, sau đó chu du khắp Âu châu, Bắc Phi và Á châu, thọ giới sa-di năm 1977 và tỳ-kheo ni (cụ túc) ở Đài Loan năm 1986. Bà đã nghiên cứu, tu tập và giảng dạy về Phật giáo khắp thế giới trong nhiều năm, và hiện tại đang sống và dạy tại Seattle với Hội Pháp Hữu (Dharma Friendship Foundation). Các sách của bà bao gồm Open Heat, Clear Heart; What Color is Your Mind; Taming the Monkey Mind; Blossoms of the Dharma: Living as a Buddhist Nun.

 

DASHIMA DOVCHIN là một y sĩ được đào tạo theo y thuật Tây Tạng. Bà nhận bằng Bác Sĩ tại đại học Y ở Mông Cổ năm 1982. Bà đã quản lý các công trình nghiên cứu tại Viện Y Học Tây Tạng, Học viện Khoa Học của Mông Cổ, nơi bà học về các loại cây thuốc Tây Tạng. Hiện chuyên môn của bà là về các bệnh gan, rối loạn hệ thần kinh, và bệnh phụ sản. Bà có phòng khám tư tại Manual Therapy Associates, ở Dallas, Texas.

 

MONICA LINDBERG FALK là thành viên trong chương trình Tiến sĩ tại đại học Goteborg, Thuỵ Điển, về xã hội nhân văn, và bà đang dạy ở Trung Tâm Đông và Đông Nam Á Học tại đại học trên. Các nghiên cứu của bà chuyên về những vấn đề của sự liên hệ về giới tính và Phật giáo, và chủ đề luận văn Tiến sĩ của bà là về các nữ tu Phật giáo tại Thái Lan

 

ELLISON BANKS FINDLY là giáo sư về tôn giáo và Á châu học tại đại học cộng đồng Trinity. Bà nhận bằng Tiến sĩ về tôn giáo tại Nam Á ở đại học Yale, năm 1978, và đã có những tác phẩm xuất bản rộng rải về Vệ Đà, Mughal và các nghiên cứu về Phật giáo cổ đại. Bà cùng với Yvonne Yazbeck Haddad biên tập sách The Islamic Impact Women, Religion and Social Change, và là tác giả của sách Nur Jahan: Empress of Mughal India. Hiện bà đang hoàn thành quyển sách về dna có tựa đề Giving and Getting: Relations Between Donors and Renunciants in Pali Buddhism.

 

 TRUDY GOODMAN tu tập theo truyền thống thiền vipassana từ năm 1974. Bà cũng là nhà tâm lý học về trẻ, là thành viên của ban điều hànhTrung Tâm Phật Học Barre. Bà hiện đang sống và tu tập tại Taos, New Mexico.

 

HIROKO KAWANAMI là giảng viên khoa nghiên cứu Phật giáo tại đại học Lancaster. Cô nhận bằng Tiến sĩ Khoa Kinh Tế và Khoa Học Chính Trị Luân Đôn ngành xã hội nhân văn năm 1991, và đã xuất bản các đề tài về nữ tu Phật giáo ở Miến Điện bằng cả hai thứ tiếng Anh và Nhật Bản.

 

THEANVY KUOCH là sáng lập viên và giám đốc điều hành của Hội Chăm Sóc Sức Khoẻ Cho Người Khmer, là một tổ chức vì sức khoẻ của người Campuchia, ở West Hartford, bang Connecticut. Cô tỵ nạn đến Mỹ năm 1981, đã nhận văn bằng Thạc sĩ về sức khoẻ tâm thần của người tỵ nạn và liệu pháp gia đình tại đại học Goddard năm 1984. Hiện tại cô là y sĩ, làm việc trong nhóm sức khoẻ tâm thần KHA và là người cổ suý cho các chương trình về sức khoẻ của những người đã từng bị tra tấn. Cô đã nhận được nhiều giải thưởng quốc gia và quốc tế vì những công trình của cô. Các ấn phẩm của cô chú trọng đến những vấn đề sức khoẻ tâm thần của những người sống sốt từ những khủng hoảng lớn lao, nhất là trẻ em và phụ nữ.

 

OWEN M. LYNCH là giáo sư khoa nhân chủng học tại đại học New York. Ông đã nhận văn bằng Tiến sĩ về nhân chủng học tại đại học Columbia năm 1966, và đã có những chuyến đi khảo sát chuyên sâu về những người Dalits ở Ấn Độ. Là ứng cử viên của nhiều giải thưởng và đảm trách nhiều chức vụ chuyên môn cấp quốc gia, ông đã phát hành nhiều bài viết về giai cấp hạ lưu, chế độ giai cấp, tính dân chủ, sự phát triển, sự chuyển hoá trong xã hội, và xã hội học về đô thị và nông thôn ở Ấn Độ. Trong số sách của ông có The Politics of Untouchability Divine Passions: The Social Construction of Emothion in India.

 

HI-AH PARK là giáo sư về kịch nghệ và múa tại đại học cộng đồng Trinity. Bà đã nghiên cứu về âm nhạc và múa cổ truyền của Đại Hàn ở Viện Âm Nhạc và Múa Cổ Truyền Quốc gia, đại học Quốc gia Seoul, Trường Âm Nhạc, ở Đại Hàn. Bà nhận văn bằng Thạc sĩ về múa dân tộc từ Đại học California-Los Angeles năm 1978. Bà đã dạy và biểu diễn khắp thế giới, và vào năm 1981, bà được thụ giáo làm pháp sư Đại Hàn, một phương cách tu tập mà bà kết hợp với Phật giáo.

NIRMALA S. SALGADO là giáo sư về tôn giáo tại Đại học Augustana, Rock Island. Bà nhận bằng Tiến sĩ về tôn giáo tại đại học Northwestern năm 1992. Bà đã bắt đầu nghiên cứu về nữ tu sĩ Phật giáo tại Tích Lan từ năm 1984 khi đang làm nghiên cứu sinh tại Trung tâm Nghiên Cứu Quốc tế về Dân Tộc Thiểu Số ở Colombo. Bà đã xuất bản nhiều bài viết về nữ tu sĩ Phật giáoTích Lan.

 

AMY SCHMIDT là một trong những vị thầy nội trú tại Insight Meditatin Center (IMS-Trung tâm Thiền Tuệ) tại Barre, Massachusett. Trước đó bà là điều phối viên nội trú tại IMS ở San Lorenzo, New Mexico. Bà đã nhận bằng Thạc sĩ về công tác xã hội, với chuyên môn về bệnh Alzheimer. Bà đã hành thiền vipassana mười sáu năm nay, đã hướng dẫn phương pháp thiền này được sáu năm và đã sống ở một số cộng đồng tâm linh. Hiện bà đang viết một quyển tiểu sử dài về Dipa Ma Barua.

 

KATE LILA WHEELER nguyên là một nữ tu Miến Điện, giờ bà là nữ cư sĩ Phật giáo, nhà văn. Bà được liệt kê trong danh sách hai mươi tiểu thuyết gia Mỹ trẻ và hay nhất của Granta, là ứng cử viên của giải PEN/ Faulkner, và đã nhận được giải thưởng về truyện ngắn O.Henry và Whiting. Tác giả của Not Where I Started From, bà lại vừa hoàn thành một tiểu thuyết mới, với tựa đề When Mountains Walked, do NXB Houghton Mifflin phát hành.

 

JAMES WHITEHILL là giáo sư về tôn giáo học ở đại học Stephens. Ông đã nhận bằng Tiến sĩđại học Drew, và là giảng viên thâm niên trong chương trình Fullbright tại Nhật Bản từ năm 1991-1993, với chuyên ngành về triết môi trường học, thần họcđạo đức. Ông là thành viên sáng lập Trung tâm Thiền Columbia. Các bài viết gần đây của ông nghiên về giới luật Phật giáo, đặc biệt so sánh với các truyền thống đạo đức của Mỹ và Tây phương.

 

JANICE D. WILLIS là giáo sư về tôn giáo tại đại học Wesleyan. Bà nhận bằng Tiến sĩ tại đại học Columbia năm 1976, với luận án về Tattvrthapatalam của Bodhisattvabh‰mi của Asanga. Bà được tặng danh hiệu giáo sư đại học Walter A. Crowell về Khoa Xã hội học ở Wesleyan năm 1992, và đã xuất bản nhiều bài tham luận về Phật giáo Tây Tạng, triết lý Phật giáo, và nữ giới trong Phật giáo. Sách của bà có thể kể đến The Diamong Light of the Eastern Dawn: An Introduction to Tibetan Buddhism; On Knowing Reality: The Tattvartha Chapter of Asanga’s Bodhisattvabh‰mi; Feminine Ground: Essays on Women and Tibet; Enlightened Beings: Life Sotries from the Ganden Oran Tradition.

*

Hiệu Đính & Tài Liệu Tham Khảo

Xin Chân thành cảm ơn các Tác giả/ Dịch giả của các sách và các tài liệuchúng tôi đã tham khảo, sử dụng.

 

1. Danh Từ Phật Học Thực Dụng, Tâm Tuệ Hỷ Biên Soạn, NXB Tôn Giáo, 2004.

2. Dipa Ma: Cuộc đờiDi Huấn (The Life and Legacy of a Buddhist Master), Amy Schmidt, Thiện Nhật dịch, NXB Phương Đông, 2006.

3. Dalai Lama, Freedom in Exile: The Autobiography of the Dalai Lama (New York: Harper Colins, 1990), t. 202-203.

4. Robert A. F. Thurman, Mandala: The Architecture of Enlightment (New York: Asia Society, Tibet House, and Boston: Shambhala), t.127.

5. Wikipedia Encyclopedia: www.wikipedia.org

6. Chodron Thubten, ed. Blossoms of the Dharma: Living as a Buddhist Nun, Berkeley, Ca: North Atlantic Books, 2000

7. Bartholomeusz, Tessa. Women under the Bo Tree: Buddhist Nuns in Sri Lanka, 1994. Reprint, Cambridge: Cambridge University Press, 1995.

8. Findly, Ellison Banks. “Ananda’s Case for Women”. International Journal of Indian Studies 3, no.2 (July-December 1993): 1-31.

9. Sự Phục Hồi Của Hội Chúng Tỳ Khưu Ni Trong Truyền thống Nguyên thuỷ, tác giả: Tỳ Khưu Bodhi, Dịch giả: Tỳ Khưu Ni Pháp Hỷ Dhammananda, NXB Tôn Giáo 2010.

 

GHI CHÚ

+ Sanchi: Một thánh địa đã được Unesco công nhậnDi Sản Thế giớiẤn Độ, gần sông Betwa, được vua A Dục (Asoka) xây dựng từ thể kỷ thứ 4 trước Công nguyên.

+ Dalit:  Còn gọi là Harijan, nhóm người theo truyền thống được coi là thuộc tầng lớp hạ cấp, không thích hợp để người khác giao du. Dalit thuộc nhiều dân tộc ở khắp nơi trong Nam Á, nói nhiều ngôn ngữ khác nhau.

 Từ Dalit có gốc từ tiếng Sanskrit, có nghĩa là ‘đất’, ‘bị đàn áp’, ‘bị ép’ hay ‘bể ra từng mảnh’. Nó được bắt đầu sử dụng vào thế kỷ thứ 19.

+ Maṇḍala là tiếng Sanskrit, có nghĩa là “vòng tròn”. Trong truyền thống Phật giáoẤn Độ giáo, nghệ thuật tâm linh của họ thường sử dụng hình thức Mandala. Hình thức cơ bản của phần lớn Mandala Phật giáoẤn Độ giáo là một hình vuông có bốn cửa, với một vòng tròn ở trung tâm. Mỗi cửa có hình dạng của chữ T.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14565)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11842)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14361)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13275)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12647)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25250)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27887)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26364)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17233)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15918)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22142)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17133)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24910)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21970)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19069)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16173)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21725)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16785)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14667)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16706)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18778)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14376)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16616)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12926)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14947)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14605)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28034)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27199)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14348)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20967)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24183)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28688)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14736)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13291)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16458)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27245)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16078)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21498)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12378)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant