Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Thử bàn về hình tượng tư duy trong thơ Mặc Giang

30 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9189)
04. Thử bàn về hình tượng tư duy trong thơ Mặc Giang

Thử bàn về hình tượng tư duy trong thơ Mặc Giang

Nguyễn Thị Quyên

Ngoài biểu lộ tâm tư tình cảm chủ quan, thì phương thức biểu đạt của thi ca không thể tách rời hình tượng. Trong quá trình kết cấu tư tưởng nghệ thuật một bài thơ, thi nhân thường bằng vào năng lực tư duy hình tượng, đem tư liệu cuộc sống đã nắm bắt được, tái hiện trong não bộ, thêm vào sự so sánh, chọn lựa khái quát, tổng hợp, rồi nung chảy thành một hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh mới mẻ, gọi là hình tượng tư duy. Hình tượng tư duy thường khiến cho những hình tượng phân tán tập trung lại, những gì bị ẩn mất hiện ra rõ ràng sáng tỏ, thậm chí có thể sáng tạo thêm những gì trong cuộc sống chưa từng có. Tuy nhiên, đó không phải điều thi ca nhắm đến, mà là phương tiện cần yếu để thể hội nội dung hay tính triết lý.

Hình tượng tư duy lệ thuộc phạm trù phát tán tư duy, là loại hình hoạt động quan trọng trong tư duy hoạt động của con người, cũng là hoạt động tư duy chủ yếu cho việc sáng tác một thi phẩm. Thi nhân thường thông qua hình tượng tư duy để sáng tạo một thế giới ý tượng phong phú, muôn màu muôn vẻ; đem những gì thuộc lãnh vực trừu tượng, thanh âm, tình cảm, biểu lộ một cách sinh động, khiến người đọc khi thưởng thức tác phẩm, gặt hái được niềm vui từ thẩm mỹ trực quan, tăng thêm sức cảm thụ nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Do đó, việc đọc và thưởng thức một tác phẩm luôn cần hình tượng tư duy, cần nhờ vào những văn tự miêu tả trong tác phẩm. Tuy nhiên, đôi khi việc cho ra đời môït thi phẩm, nhất thiết cần phải vận dụng hình tượng tư duy, nhưng nó không như văn học, là xem hình tượng tư duy như là phương thức tư duy chủ yếu, xuyên suốt gần trọn tác phẩm.

Để tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật sử dụng hình tượng tư duy trong thơ Mặc Giang, sau đây người viết thử thông qua phân tích sơ vài hình tượng được vận dụng trong thơ.

1. Cảnh tượng vạn vật

Vạn sự vạn vật trong thơ Mặc Giang, đôi khi là một hình ảnh rất nên thơ. Miêu tả về Sắc thắm muôn hoa, Mặc Giang viết: 

Hoa lan đủ loại đủ màu,

Non nghiêng bóng nước rầu rầu ngẩn ngơ,

Chim sa rũ cánh bơ phờ

Cá chìm lẳng lặng, đẫn đờ vây man.

Bằng hình tượng nghiêng, rầu rầu, lẳng lặng, đẫn đờ của núi non, của chim và cá, ý thơ đã phác họa một cảnh thắm sắc vẻ đẹp muôn hoa, một bức tranh mỹ lệ của loài lan. Đó là nét đẹp tinh khôi, ươm mầm sức sống vươn lên, một dáng dấp với sự thanh cao, khí tiết, ngạo nghễ. Từ trong cái đẹp trinh nguyên, trong sức sống dạt dào của cảnh vật, ta như đi sâu thẳm trong sức sống muôn loài, mà chỉ có ở đó, mới cho ta đủ sức mạnh xây dựng cho chính mình cái đẹp của một tâm hồn thanh cao trong sạch miên trường. Do đó, ta cảm thấy rằng, hình ảnh vạn vật hương hoa trên hiện lên qua bút lực của Mặc Giang bỗng trở nên rất diệu kỳ, rất thực, rất sinh động cụ thể giữa trần đời sinh diệt, giữa phong sương tuế nguyệt ta đà.

Cũng bằng vào năng lực tư duy, khả năng phân tích theo chiều hướng tổng hợp, quy nạp và khả năng bản lĩnh tư duy được tôi luyện chín muồi, người thơ Mặc Giang đã xây dựng khá thành công cảnh tượng rất thực, rất nên thơ, và phảng phất chút dư âm bút pháp lãng mạn : 

Thong dong trời xanh mây trắng,

Trời xanh mây trắng thong dong,

Óng vàng rải nhẹ nắng hong,

Bướm bay vườn rau đón gió.

(Đi đâu cũng nhớ trở về)

Với thủ pháp biểu đạt ngôn ngữ tinh luyện, thi sĩ Mặc Giang đã tạo nên một hình tượng thanh tao, sáng đẹp, nhẹ nhàng, có thể nói là hoàn chỉnh trong hình thức không gian, đặc sắc trong ý tưởng xây dựng. Đây là một ý cảnh. Trong ý cảnh này, ta không những chỉ bắt gặp vẻ đẹp sinh đôïng, mát lành, tươi mươi, nhẹ nhàng của vạn vật ngoại giới, mà còn cảm nhận được tình cảm nội tâm, diễn biến của cảm xúc tâm linh theo chiều hướng tích cực, đó là một tinh thần mẫn tiệp thông tuệ, một ý tưởng sảng khoái bay vút, một tâm hồn nhẹ nhàng an vui.

Ý cảnh trên cố nhiên được xây dựng trên kích thước chiều sâu của tâm thức khi ngắm nhìn sự hiện diện của vạn vật, ở đó không phải đơn thuần là cái nhìn của cảm tính, quan năng, hay cái nhìn của trực cảm, không thông qua trung gian lý luận phân tích theo chiều hướng phát triển ngoại tại của sự vật, mà còn có những thẩm sâu chuyên chở trong tứ thơ là cái dạt dào của ý thức, của tư duy chủ quan về sự hiện hữu của giới cảnh. Do vậy, hình ảnh thong dong của mây và trời, óng vàng của nắng ở đây được hiểu như là một ngoại tại của dòng vô thức, nhưng cũng chính là một ý cảnh được tái hiện qua sự sàng lọc của tâm thức. Cho nên, ảnh tượng này càng không phải là bộc phát của ý thức, không qua trung gian lý tính, mà đó là lôgích diễn biến tình cảm của tâm trạng “xa rồi vẫn nhớ vẫn trông, quê nghèo thơm thơm đất mẹ”. Rõ cho thấy, nghệ thuật hình tượng trên, là hình tượng của tư duy, là một hình tượng có quan hệ mật thiết, không thể tách rời tình cảm chân ý, đây chính là cốt cách, là chủ hướng cho ý tưởng chất thơ của nhà thơ Mặc Giang.

Cảnh tượng gắn liền với tình người sâu đậm ở trên, đã tạo dựng một viễn cảnh xán lạn, tràn trề nhựa sức sống, nhưng đâu đó trong một góc của cuộc sống, là hình ảnh thê lương buồn tẻ, là mặt còn lại của cuộc đời hay cái ẩn nấp đằng sau sức sống ươm nụ, được Mặc Giang đã phác họa một cách rất thực, tế nhị, sâu sắc qua hình ảnh:

Nơi sau vườn cỏ cao bằng đọt chuối,

Chuối trổ buồng rồi chín héo đeo cây

Nơi cửa trước không cài, bao lớp bụi phủ dày,

Khu xó bếp xác xơ, tro tàn bay muốn hết,


Bên bờ ao, cá ngậm tăm, không đớp,

Súng chen bèo, buồn ủ dột lặng thinh

(Thương những gia đình bất hạnh).

Bằng phong cách ngôn ngữ với bút pháp nghệ thuật miêu tả hình tượng, nhà thơ Mặc Giang đã xây dựng thành công đáng kể một hình ảnh thật trong đời thường. Cỏ cao bằng đọt chuối, chuối héo, cửa không cài, tro tàn bay muốn hết, cá không đớp, đều là những hình ảnh vừa có tính ám chỉ, vừa có tính tượng trưng; ám chỉ buồn mênh mang của những gia đình bất hạnh ly tan, tượng trưng cho nỗi đau thương nhuốm màu thời gian. Đó là ảnh tượng của thực trạng cảnh chết chóc của tập thể gia đình. Bát nhang của họ đầy mạng nhện, rồi đến lúc nhện cũng bỏ đi, vì ruồi muỗi cũng không còn. Cho thấy thi nhân đã phác họa một hình tượng với ý cảnh hoàn chỉnh, bao hàm miêu tả cả trọn vẹn sinh động ngoại cảnh lẫn nội tâm, không gian lẫn thời gian.

Bút pháp nghệ thuật tài tình của thi sĩ Mặc Giang cho độc giả cảm nhận được rằng, thơ ông không phải chỉ thuần là sản phẩm của cảm tính, tức miêu tả sự vật thông qua cảm giác của quan năng và não bộ của tự thân, rồi đem những hình ảnh cụ thể trực tiếp cảm thọ từ sự vật khách quan, vận dụng thi ca để biểu đạt qua những ý tượng hình ảnh khác nhau. Mà là đằng sau bức màn của những hình ảnh thuần túy cảm tính ấy, là sự phối hợp, khống chế của lý tính. Cho thấy, đối thoại của thi nhân Mặc Giang là đối thoại dưới tiền đề không đi ngược với lý tính, mang rõ sắc màu lý tính. Nét đặc sắc này có lẽ bất chợt nhìn không ra, vì nó ẩn nấp rất sâu.

Dưới sự chỉ đạo của tiền đề lý tính ấy, Mặc Giang đủ cơ sở, đủ bản lĩnh hướng dẫn người thích thơ đi sâu hơn, cụ thể hơn trong thâm sâu của tình cảm hay cảm tính. Trong bài Cao Nguyên quê hương tôi, thi nhân viết? 

Cao Nguyên như tóc mẹ bồng bềnh,

Gió lộng Trường Sơn bạt biển Đông

Những thuở thanh bình thêu gấm ngọc,

Những khi nguy biến tợ như đồng

Tóc bồng bềnh, thêu gấm ngọc, tợ như đồng, đều là những hình ảnh có tính tượng trưng, tượng trưng cho bản làng Cao Nguyên luôn hài hòa trong nét đẹp đan thanh hùng vĩ giữa mây ngàn gió núi chốn lam sơn, với những tháng ngày hoan ca trong sinh khí đầy nhựa sống; cũng tượng trưng cho tâm hồn tình cảm của người dân trong những khi éo le, không mấy bằng phẳng ấm yên. Đây là những hình ảnh sinh động, vừa gợi hình gợi cảm, vừa vui thanh vắng tao nhã, vừa có chút u buồn trầm tĩnh kiêu sa, nhưng cũng khép lại đằng sau bởi yếu tố lí tính, là sự trở về với nội tại định tĩnh sâu sắc của hồn thơ khép kín trên cung bậc lí tình song vận.

2. Vi tế sinh động của thanh âm

Ngôn ngữ miêu tả hình dung thanh âm trong thơ Mặc Giang cũng mang nét đặc biệt, được ra đời trên cơ sở của sựï thể hội những bí ẩn của thế giới nghệ thuật trong cuộc sống. Trong Đưa tay mở cửa trần gian, thi sĩ Mặc Giang tả :

Đất trời rộng quá thênh thênh, 

Cuối sông nước chảy, đầu ghềnh thác reo

Tử sinh chiếc lá đưa vèo,

Gởi thân quán trọ bọt bèo hợp tan

Cảnh tượng với bao thanh âm kì vĩ này thật sự như tạo nên một không gian như dàn trải đến vô tận, một thời gian đang đứng lặng vần xoay, rồi như cao vút tận lưng đồi, rồi cũng như đang chuyển mình mềm mại xuống vực sâu để hòa quyện với bao tinh hoa âm dương của đất trời lao la. Tiếng reo của thác nước, âm vang đưa vèo của chiếc lá đầu cành, như là âm vận của cảnh sắc, của bức chân dung bề mặt nổi, hay chính là cái cảnh sắc hài hòa ý vị đang gảy trên cung bậc hòa tấu đan xen của thời-không. Bản thân chúng cũng chính là một trong trăm ngàn diệt sanh biến hiện, nhưng khi tái hiện dưới bút pháp của thi nhân, thì như một bản trường ca với nhiều âm vang cung vận hay và đẹp, như vẽ ra một khoảng không mà ở đó con người có thể cảm nhận được chân lý miên viễn sau sự cộng hưởng của một dàn thanh điệu tiết tấu nhịp nhàng của đất trời. Trong cái miên viễn ấy, phải chăng cũng đã bao hàm tính chất tạm bợ, “có mặt nhau trong một khoảng cuộc đời, bèo trôi dạt người đi người ở lại” của kiếp người.

Chỉ bốn câu thơ với chừng ấy hình tượng, nhưng cũng đủ cho ta thấy, tư tưởngý hướng của thi nhân như vừa khép lại vừa mở, như điệp khúc quê hương đang ru hồn người con lạc lõng trên phố xá hoa lệ trở về với quê nhà ấm yên. Ở đây, rõ ràng cho chúng ta thấy, việc xây dựng hình tượng qua sự miêu tả thanh âm này đã mang đến cho người đọc là, hoàn toàn không chỉ dừng lại thả hồn trên cái thinh thang lồng lộng thi vị của đất trời, mà nên nhận chân được yếu tố toàn diện trong cuộc sống, nhìn sự vận hành của thế cuôïc là một quá trình, là sự tổng hòa giữa văn và chất, giữa ngoại tại và nội tại, hay là giữa động và tĩnh.

Và đôi khi, trong tiếng suối róc rách, tiếng sóng vỗ bờ, hay thanh âm của “muôn chim hót reo bình minh thức dậy” ấy, là hình của bóng đêm với âm vang :

Tiếng lá khua nghe rung rinh lay động

Tiếng dế kêu nghe ủ dột mùi sương

Tiếng quốc kêu nghe não nuột đêm trường

Và nghe cả tiếng canh thâu cô tịch

(Nhìn bóng đêm ngái ngủ)

Bằng vào nghệ thuật miêu tả phác họa một số hình ảnh thanh âm của cảnh đêm, thi nhân đã tạo nên một nền không gian với bao cảnh cô tịch, trầm lắng, lặng lẽ, thâm sâu chảy dài trong vạm vỡ chất ngất của bóng đêm. Và ở đây, qua việc xây dựng hình tượng miêu tả thanh âm này, tác giả không làm sao dấu giếm được nỗi niềm yêu quê thương nước qua hình ảnh con quốc với giọng kêu não nuột. Trong bóng đêm cô tịch ấy, tiếng kêu não nuột của con quốc như tạo nên trạng huống yên phận, thủ thường, nhưng cũng như muốn xâm chiếm cả màn đêm, xé tan khoảng chân không ngái ngủ.

Thông qua một loạt hình tượng sinh động trên, cho ta thấy, thi nhân không những đã miêu tả hình ảnh rất thật, rất sinh động của bóng đêm, mà đã vận dụng được hình tượng tư duy, khiến cho những ý tượng về màu đen hay cái sự kinh khủng bàng hoàng của bóng đêm từ trong thơ hiện lên rất sắc nét sinh động gợi cảm, khiến người đọc có cảm giác như đang kề cận, đang ở trong cảnh đó, do đó có khả năng làm tăng thêm sức mỹ cảm của khổ thơ. Cũng trong chiều hướng này, cũng qua việc vận dụng được hình tượng tư duy, trong Cao Nguyên quê hương tôi, Mặc Giang có những câu thơ xây dựng ý tượng của một buôn làng, rất bình dị, rất Việt Nam, đó là: 

Quê hương tôi đó ở Cao Nguyên

Núi thẳm rừng sâu thật diễm tuyền

Suối vắng ven đồi reo róc rách

Đêm thanh gió lộng nhạc thần tiên

(Mặc Giang, Cao Nguyên quê hương tôi)

Hình ảnh làng quê với bao thanh âm róc rách của suối, tiếng du dương của điệu nhạc thần tiên, cho ta thấy nhà thơ Mặc Giang đã vận dụng hình tượng tư duy, hình tượng hóa những thanh âm trừu tượng, tạo nên một âm sắc tiết tấu, cảm động sâu sắc tâm hồn người đọc bằng những sắc màu của hình tượng hóa tươi mát, bằng một không gian khoan khoái, trong lành dễ chịu như một sáng tinh mơ, khi vạn vật chưa manh động với sự ô nhiễm của âm thanh đời thường khác, chưa bị chi phối bởi sức cám dỗ của bao cảnh đời tục lụy.

Nói chung, về lĩnh vực hình tượng hóa những thanh âm trừu tượng, thi nhân Mặc Giang đã dùng những ảnh tượng thanh âm một cách có chọn lọc rộng rãi, sâu sắc, nên đã tạo ra một loạt ý tượng sống động sinh động, rung động lòng người, bởi đã đem cái đẹp thanh thoát của thanh âm trong thiên nhiên nâng lên đến tận cùng của nó.

3. Rung cảm tình người :  

Những biểu hiện diễn biến cảm xúc tình cảm trong thơ Mặc Giang thông qua hình tượng tư duy thường thì thanh thoát nhẹ nhàng, không bi lụy sầu thương, bịn rịn, u uất nghẹt thở. Trong Việt Nam, quê hương còn đó, ông viết,

Sông ơi ! có nhớ lấy nguồn

Núi ơi ! có nhớ lấy non mấy lần.

Tang thương mấy độ phong trần,

Lại còn mấy lớp phù vân tiêu điều

Thi nhân đã vận dụng những hình ảnh cụ thể như sông, nguồn, núi, phù vân, tiêu điều để biểu đạt tình cảm yêu quê hương đất nước dạt dào, và càng xót thương quê nhà, đứt ruột đứt gan do những biến cố thăng trầm của lịch sử. Qua việc vận dụng hình tượng “sông” với “nguồn”, “núi” với “non”, biểu hiện mối quan hệ vĩnh hằng không thể phân cách của hai sự kiện, hai cũng chính là một mà thôi, tác giả đã khéo khẳng định rằng, chính trong quê hương vốn đã và sẽ vĩnh viễn mang tiếng khóc đầu đời của mình; và trong huyết mạch thi nhân không khi nào là không cưu mang nâng niu, ấp ủ hình bóng quê hương. Nên một lần nữa, qua phong cách biểu đạt hình tượng nghệ thuật, thi nhân đã thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa hai khối đại tình cảm trong những ngày viễn xứ tha hương bằng hình ảnh gợi cảm sinh động của:

Bụi tre nghiêng bóng sau hè,

Bờ sông mòn lối con đê

Dấu mờ rải nhẹ lê thê,

Nhà tranh còn mái tình quê

(Mặc Giang, Tôi nói anh nghe)

Một loạt hình ảnh này đã vẽ ra trước mắt chúng ta một cõi nhớ thương đợi chờ, mỏi mòn năm tháng của gốc đa bến nước, của mẹ, của em, của chị, của anh, của thầy, của bạn. Phải chăng thi nhân muốn nói rằng: “ra đi ai không nhung nhớ, trở về ai chẳng chờ mong, quê hương còn đây muôn thuở, chạnh lòng nhớ những đêm đông”. Cũng vì nơi chôn nhau cắt rốn, nơi “võng trời kẽo kẹt”, có “mẹ già đưa từng trái bắp củ khoai” ấy, là bao kỉ niệm đẹp của thời thơ ấu:

Đêm trăng tắm mát dòng sông,

áo phơi trước ngọn gió lồng

Cùng reo câu hò tiếng hát,

khuya về bỏ lại bến không

(Mặc Giang, Xóm nhỏ làng quê)

Những cảnh vật và hình ảnh vừa thực vừa hư như bụi tre, con đê, nhà tranh, và hình ảnh của tắm mát dòng sông, bến không, đều là nhà thơ Mặc Giang dùng tư duy hình tượng hóa để miêu tả những mô thức điển phạm của tình cảm. Đặc biệt, khuya về bỏ lại bến không, là một hình tượng nói lên cảnh quê nhà vừa thanh vắng vừa thanh thoát, vừa sáng đẹp vừa nhẹ nhàng, thi vị. Tuy rằng đó chỉ là một hình ảnh làm người đọc hình dung ngay ra cái cảnh thinh lặng, không một âm thanh, mà chỉ còn là tiếng sóng rạt rào lăn tăn, vi tế đang vỗ êm ả vào bờ, là cái đẹp của cảnh sắc vượt thời gian, nhưng đó cũng chính là cái đẹp trầm tĩnh, đong đưa bao kỉ niệm đẹp thanh cao miên viễn trong suốt cuộc đời. Cho thấy, thi nhân đã tạo nên một nghệ thuật nhuần nhuyễn, vừa sinh động, lại vừa tinh luyện, truyền thần, khắn khít, thân thiết, và tự nhiên. Những hình thức tư duy của hình tượng hóa này, càng nói lên rõ hơn nỗi niềm của người phương xa, đó chính là tình cảm mà thi sĩ Mặc Giang đã nói trong Việt Nam, quê hương còn đó là “thương quê từ bấy đến giờ, yêu quê từ độ bơ vơ khơi dòng”.

Và trong Gãy một nhịp cầu sa bóng nước, thi nhân viết: “bãi cát phù sa mờ gió bụi, lối mòn rêu phủ vết xa xăm”, “Nhớ mẹ âm thầm dưới mái tranh, thương em không nói liễu buông mành”. Đều là những danh từ câu cú đặc biệt, sử dụng phương thức tư duy hình tượng hóa, là những hình ảnh gần gũi làng quê, thân thiết, u buồn, nhưng rất đẹp, rất sống, rất thơ, đã miêu tả tình cảm và nỗi niềm tình quê lớn dần theo năm tháng thời gian của người thơ. Nỗi nhớ niềm mong rất cảm động này, quả dễ dàng chấn cảm mạnh tâm linh người đọc.

Thông qua hình tượng tư duy với ý cảnh đặc biệt, thi sĩ Mặc Giang đã trình bày một cách sống động, gợi cảm, rất thực tâm tư tình cảm nội tâm con người, nội tâm của chính mình. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh vừa cụ thể, vừa trừu tượng này, trong vô hình đã tạo nên một thế giới thanh âm kì vĩ được thẩm thấu qua những hình tượng tư duy khá điễn hình. Chúng như những thanh âm hùng tráng của nhạc khúc khải hoàn, reo ca không ngớt trên lộ trình đi về miên viễn của đạo lộ nhân sanh.

4. Biểu cảm 

Thông qua biểu đạt, miêu tả những cảm xúc tình cảm biểu hiện ra bên ngoài của con người, thi nhân Mặc Giang đã dẫn chúng ta đi một bước xa hơn về tìm hiểu hình tượng tư duy trong thơ ông. Trong Đất trời sao lắm phũ phàng, viết khi tai nạn sóng thần năm 2004, Mặc Giang viết :

Tiếng cứu người, tiếng cứu trợ, tiếng mất tích, khóc la

Tiếng chết chóc, tiếng kêu thương, tiếng kinh hoàng bão thổi

Rồi gió mưa, rồi nghiêng ngửa, rồi cuốn chìm, trôi nổi

Rồi trào tuôn, rồi tan nát, rồi nước xoáy, vỡ bờ

và trong Em bé mồ côi, thì tả:

Nước mắt em ứa hoen mờ

Hoen lên đỉnh núi mờ bờ thùy dương.

Em mang giọt lệ đau thương

Từng bước chân, đếm trên đường đơn côi

Rõ cho thấy, những biểu cảm trên đều đã bộc lộ tận cùng đau thương của tai nạn sóng thần lịch sử, và nỗi buồn sâu thẳm không có gì có thể bù đắp hay thay thế trong cõi lòng của những em bé mồ côi, của những em bé lang bạt trên vỉa hè góc phố. Thông qua hình tượng tư duy được miêu tả sống đôïng này, cho ta thấy, Mặc Giang như cũng đã nói rằng, “sao nhìn tôi, em không nói nên lời, tôi đã hiểu đời em nhiêu đau khổ”. Cũng thông qua hình tượng tư duy, nhưng trong hoàn cảnh lao ngục, thi sĩ Mặc Giang tả :

Mắt hằn sâu, ngó khung trời biền biệt

Chân tay còng, bó góc cạnh đơn cô

Trán ôm đầu, cho nát những tàn khô

Mang thân phận đẳng đeo theo trọn kiếp

(Mặc Giang, thương cảnh ngục tù)

Qua hình tượng đôi mắt hằn sâu, ngó nhìn vào phương trời biền biệt, động tác của chân, tay, thi nhân rõ đã xây dựng thành công một cách sinh động của tâm hồn người tù trong cảnh ngục tù bị nhốt đứng xích ngồi, đó là một tâm lý hết sức buồn sầu, trách hận, ăn năn thống hối, hay đăm chiêu, ngậm đắng, nuốt cay, chai đá, hùng anh. Cũng với bút pháp nghệ thuật miêu tả tương tợ, trong Ngày trở về, Mặc Giang viết:

Ngày trở về, tôi lặng yên không nói

Mắt buồn buồn, nhìn, ngó thật xa xôi

Ngó trước sau, ngó quanh quất một hồi

Rồi đảo mắt, xa dần ra đầu ngõ

Những biểu hiện cảm xúc bên ngoài như phong thái trầm ngâm, buồn không nói, rồi ngó nhìn quanh quẩn bốn bề tám hướng, là một hình tượng miêu tả sống động nỗi lòng khi trở về quê mẹ sau bao năm xa cách, không che dấu kìm nén được cảm xúc tâm tư, nỗi niềm thầm kín đong đầy trong lòng. Tuy rằng trở về quê mẹ, hay chính quê hương Việt Nam, là trở về với nguồn cội tình thương, dễ làm ấm lòng, nhưng cũng chính ngay hình bóng quê mẹ, cũng không sao tránh khỏi những u hoài, man mác, tiếc thương những nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi.

Hình tượng tư duy được dùng trong thơ Mặc Giang đã sáng tạo những tiêu biểu về thế giới ý tượng, tạo dựng những ý cảnh tuyệt đẹp. Việc vận dụng thành công hình tượng tư duy trong thơ ông, đã mở rộng được nội hàm và dung lượng thi ca, hình tượng hóa những trừu tượng, tạo nên một ý tượng thơ ca phong phú đa dạng, làm người đọc triển khai được đôi cánh của sức tưởng tượng, tiến nhập vào thế giới ý tượng thuần mỹ, tăng thêm chiều sâu và nét đẹp nghệ thuật của thơ. Tuy nhiên, nghệ thuật dùng hình tượng miêu tả cảnh vật trong thơ của Mặc Giang đã cho ta thấy, những câu thơ đến từ tình cảm, đến từ sự dẫn dắt của lý tính của ý thức thâm sâu, nhưng thi nhân cũng khó mà cảm tri sự chỉ đạo của lý tính khi hồn thơ tuôn chảy dưới nghệ thuật vận dụng hình tượng tư duy cụ thểtrừu tượng, mà chỉ có sau khi tác phẩm hình thành, thì tự nhiên thấy nó lưu lộ. Đây chính là nghệ thuật, chính là đối thoại. Nó có một quy luật của nó, đó là quy luật cảm tri tính và khắc chế tính.

Vì vậy, cái đẹp của thi ca Mặc Giang không chỉ bao hàm phong cách ngôn ngữ, bút pháp nghệ thuật, hình thức biểu hiện, mà quan trọng hơn vẫn là nội dung. Nét đẹp thi ca của ông là sự kết tinh thống nhất hài hòa giữa tư tưởng và nghệ thuật, nội dung và hình thức, ý và cảnh. Do đó cho ta thấy, tác giả đã phải nhiệt tình chú tâm quan sát xã hội, quan sát tự nhiên, quan sát và thể nghiệm cuộc sống thân thiết của chúng ta trong từng nhịp tim hơi thở. Trong quá trình quan sát và thể nghiệm, người thơ Mặc Giang đạt được nhận thức; thông qua quá trình đó, đã nắm bắt hình tượng, tích lũy tình cảm, đem tình nhập cảnh, dùng tư tưởngtrí huệ của mình để phát huy tình cảm và sự thể nghiệm của nội tâm

Nói chung, hình tượng về cảnh vật trong thơ Mặc Giang tuy nó là nó, nó là thế giới của thi ca, của sự chấp bút đôi khi chỉ trong khoảnh khắc nhất thời, nhưng thực chất đó là một quá trình của sự hấp thu và chọn lựa từ những gì chắt lọc trong trẻo ý vị trong cuộc sống. Hình như thi sĩ Mặc Giang đang đối thoại với sự vật, đó là một linh động; nhưng những tình cảm trào tuôn trong tâm nhà thơ, là tác dụng trên sự vật, mà sự linh động khiến cho sự vật và cảm thọ chủ quan dung hợp nhau một cách hài hòa.

Có thể nói rằng, “thơ ca trình bày cái thực cái đẹp của tự nhiên, của con ngườisáng tạo chứ không phải sao chép mà thành”. Nhà thơ Mặc Giang đã từ trong sâu sắc của tâm linh chế tác lại cảnh tượng của đại tự nhiên, hoặc thêm những sáng tạo từ những gì thấy được một cách linh động, tinh vi tôi luyện. Như Biệt Lâm Tư Cơ nói: “bất kì trường hợp nào, cái đẹp đều xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn, vì cảnh tượng của đại tự nhiên không thể là cái đẹp tuyệt đối. Cái thực hay cái đẹp đó ẩn nấp trong tâm linh của người sáng tạo hoặc quan sát chúng”. Thi nhân Mặc Giang cũng đã dùng tình cảm và tư tưởng của mình sau khi quan sát vạn vật, đã tô vẽ cho đại tự nhiên càng thêm sinh khí, để nội dung chuyển tải trong từng hình tượng tư duy càng rõ rệt, càng rốt ráo. Điều này khiến cho nội dung thi ca như đã và đang mở ra một xu hướng, một cơ hội chuyển tải sâu xa hơn về ý nghĩa thâm sâu hay triết lý của nó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14847)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17775)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18206)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13171)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21129)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32550)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15295)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12339)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27470)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12127)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34912)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17728)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11803)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12638)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14563)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32449)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19451)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14080)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14263)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15310)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14134)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11950)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53137)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11649)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13915)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13808)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20680)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14308)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13605)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34140)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16205)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14067)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14195)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13548)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15891)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13499)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22945)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27722)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13891)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24930)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13941)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31307)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13856)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15553)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14954)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant