Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 02: Tiềm lực tái sinh qua sự nghiên cứu não bộ

16 Tháng Hai 201200:00(Xem: 12217)
Phần 02: Tiềm lực tái sinh qua sự nghiên cứu não bộ

Khoa học và sự tái sinh theo nhà Phật

Soạn dịch: Nguyễn Điều

PHẦN II

TIỀM LỰC “TÁI SINH” QUA SỰ NGHIÊN CỨU NÃO BỘ


Tái sinh là một vấn đề vô cùng hóc búa trong khoa học tâm linh. Nó ám chỉ khả năng của cái mà người ta gọi là tinh thần, hay linh hồn của một người sau khi chết.

Các nhà chuyên nghiên cứu về não bộ nhân thế, xưa nay vẫn chỉ công bố những gì họ đã từng nhiều thế hệ khảo sát qua. Nhưng họ không bao giờ khẳng định đó là kết luận cuối cùng. Nghĩa là họ chưa dám xác nhận rằng: Chẳng còn gì để tìm hiểu thêm về tinh thần con người nữa. Vì quyết đoán như vậy là đóng khung, là dừng lại, là phản tiến bộ, và phản khoa học.

Bác sĩ Hyppocrate, người Hy lạp, sinh năm 377 trước kỷ nguyên, khi khám nghiệm vết thương ở đầu đã nói:

Do não bộ và chỉ có não bộ mà thôi, mới cho chúng ta những lạc thú (như nụ cười, nét hài hước), và cho chúng ta sự phiền muộn (như buồn rầu, sợ hãi hay đau đớn)”.

Một khoa học gia khác, ông Richard Restak chuyên về thần kinh, cũng phát biểu: “Não bộ là nơi sinh ra thần trí (esprit) và lương tri (conscience) của con người”.

Ngày nay, nếu có một số nhà vật lý thần kinh học (Physico-Neurologur) đồng ý với mấy câu nói nêu trên, thì cũng có những vị khác chẳng đồng các quan điểm ấy. Và họ tuyên bố thẳng ra rằng: “Thật sự chúng tôi vẫn chưa hiểu được thần trílương tri của con người nằm trong não bộ như thế nào. Hy vọng một ngày kia khoa học sẽ rọi được ánh sáng vào đó ”.

Bàn xa hơn, một nhà thần kinh học nọ, ông David H.Hubel lại phân trần: “Hai chữ tinh thần của con người chẳng có giới hạn rõ ràng, chúng ta hãy tạm gác nó ra ngoài khoa nghiên cứu cụ thể. Vì nó mang đặc tính bí hiểm, khó hiểu như Ê-te(éther), một thứ tĩnh khí nằm trong vũ trụ, mà không ai biết nguồn gốc”. Phải chăng ông muốn nói: Vị trí của tinh thần đối với não bộ, có thể xem như vị trí của tâm thần học đối với khoa học nhân thể thực nghiệm?

Nhưng theo cái nhìn thanh tịnh khoa học, trong đạo Phật, sự “tương thông” giữa tinh thần và não bộ, có thể hiểu như sự phản ứng của luồng điện khi gặp hoá chất sinh ra. Đó tuy là một phối hợp có nguyên lý. Nhưng người ta không thể thực nghiệm, tách rời được cái nguyên lý ấy ra khỏi phối hợp, bằng những chứng minh cụ thể.

Các nhà bác học về sinh hoạt cơ năng, khi nêu lên thuyết “Não bộ hoạt động sinh ra tinh thần”, họ đã chỉ xem não bộ như một cái máy “phối trí” (ordinateur). Nhưng “kẹt” một cái là máy phối trí lúc chạy, phải tuân theo một chương trình đã hướng dẫn sẵn (Logiciel). Không có chương trình ấn định trước, và không có ngón tay “khởi động” ấn vào nút “ra lệnh”, thì máy phối trí trở thành vô dụng, không làm sao tự “kích thích” để lấy đà, làm hết những việc còn lại. Nghĩa là máy phối trítinh vi đến đâu, cũng chỉ “thi hành” sau khi nhận lệnh, và luôn luôn làm việc theo thứ tự, cái này trước cái kia sau, chứ nó chẳng bao giờ biết nhận xét, để cân nhắc, uyển chuyển, thẩm định, tự chọn vào phút chót cái nào quan trọng nhất, mà làm trước.

Nhưng não bộ của con người thì khác. Hiển nhiên nó kỳ lạ hơn cái máy phối trí bội phần. (Danh từ ordinateur hiện nay được nhiều người Việt dịch là máy vi tính, nhưng trong khuôn khổ bài này, chúng tôi xin phép gọi là máy phối trí cho tiện, mong quý vị thông cảm).

Về phương diện cấu tạo, não bộ có hàng triệu đường gân li ti, kết nối với nhau chằng chịt trong một xương sọ chỉ lớn khoảng bằng quả dừa, để nó tự giải quyết cùng một lúc khá nhiều vấn đề phức tạp khác nhau, mà trên khả năng “vận chuyển”, một máy phối trítối tân đến đâu cũng không thể nào làm được.

Tuy nhiên, máy phối trí và não bộ lại có một điểm tương đồng: Cả hai muốn hoạt động phải nhờ dòng điện tử. Điện tử dùng cho não bộ do biến hóa thân nhiệt con người cung cấp, còn điện tử chạy máy phối trí (ordinateur) thì do cơ khí dẫn đến.

Như trên đã nói, điểm đặc sắc mà máy phối trí muôn ngàn lần không thể nào bì kịp não bộ, là não bộ tự nó thiết lập và thay đổi được chương trình. Còn máy phối trí thì phải nhờ vào sự sáng tạo của con người. Tức là nhờ chuyên viên tin học (informaticien) cho nó chương trình, rồi bảo gì thì nó làm nấy.

Hơn nữa, chưa có một máy phối trí nào có thể làm được những chuyện như mơ mộng, tươi tỉnh, mỉm cười ý nhị, hay nóng nảy hậm hực, hoặc hờn giận lầm lì một cách sâu sắc nham hiểm, mà người bàng quan khó đoán trước được phản ứng ra hành động của người mang nét mặt ấy ra sao, tiếp theo sau đó.

Nói chung là sự biểu lộ những thất tình lục dục, thuộc về tinh thần (esprit) và lương tri (conciense) của con người, thì máy phối trí hoàn toàn bất lực.

Vì thiếu tinh thầnlương tri, nên máy phối trí không thể phân biệt được cái hay, cái dở, điều thiện, lẽ ác, như khả năng của tinh thầnlương tri, kinh qua não bộ của con người. Khi luận về giá trị của tinh thần, tư tưởng Á Đông còn đề cao lương tri (conciense), và cho rằng nếu khônglương tri thì nhân loại không có sự tiếp tục tiến hóa.

Những người có một tâm tư chánh trực, tự tin, cao thượng và một lương tri trong sáng, thì họ có một vùng hào quang vô hình bao quanh thân thể, nhất là quanh đầu. Và chỉ có những bậc sống đời sống đạo đức, có tâm thức an trụ, và có nhãn thức thanh tịnh, tức là có con mắt “thần diệu” (oeil mystique), thì họ mới thấy được ánh hào quang này.

Nhiều nhà vật lý học tân tiến đã để công nghiên cứu ánh hào quang đó, rồi giải thích như sau: Hào quang (hay thần quang) là sự xuất hiện của những luồng sáng lượng tử (ondes quantiques), phát ra từ não bộ con người, có sự liên quan đến không gianthời gian (Espace-temps).

Các nhà chuyên môn khảo cứu về lượng tử, thì cho rằng lượng tử là “phản lý” của những sự hiểu biết thông thường. Phản lý vì lượng tử không có định tướng, và không dựa vào lý lẽ, trong khi đó sự hiểu biết thông thường của con người luôn luôn được đặt căn bản trên những định cứ liên quan đến sắc thể và hệ luận, hay suy diễn quy nạp thuộc về duy lý (logique).

Người ta quan sátghi nhận: khi hai bộ phận cách nhau bởi một khoảng cách rất hẹp (micro-espace), và trong khoảng thời gian đầu chớp nhoáng (flash temps), thì ánh sáng phát ra giữa hai bộ phận ấy. Ánh sáng đó chứng minh rằng: Hai bộ phận kia khi vừa đến gần đã tự liên lạc với nhau dưới dạnh phóng ra sóng lượng tử (Ondes quantiques).

Đó là nguyên nhân của ánh hào quang. Và chung chung thì mọi người đều có hào quang, mạnh hay yếu tùy theo tần lực khác nhau của mỗi cá nhân. Nhưng vấn đề có thấy được nó hay không, lại là một chuyện khác. Không phải ai cũng có thể thấy nó dễ dàng. Nhất là đại đa số phàm nhân, tâm trí luôn luôn bị tham sân si làm cho loạn động, họ càng không thể tin vào sự “hiện hữu” của nó, khoan nói đến chuyện thấy nó.

Theo phát triển thân thể, thì những trẻ em từ 9 đến 10 tuổi hoạt động nhiều với khối não bên mặt. Người ta đã chọn chúng để giảo nghiệm về tâm linh, thì có 12 trẻ em trên 100 đứa, đã cho biết là chúng thỉnh thoảng thấy sự chuyển động có màu sắc mờ ảo xung quanh đầu con người, trong một thời gian rất ngắn. Các lứa tuổi lớn hơn, “tự tin” hơn, nhưng trí óc bắt đầu bận rộn với ngoại cảnh, mất đi tính vô tư (hồn nhiên), thì tỷ lệ “thấy” khá thấp, nên chúng thường lấy làm ngạc nhiên khi được hỏi về chuyện này, vì chúng cho rằng ai cũng phải “thấy” như chúng.

Sự chuyển động có màu sắc mờ ảo xung quanh đầu người nói trên là ánh hào quang. Những người đã trưởng thành, thân thể đã quen sống với khối não bên trái, thì không thể thấy được ánh hào quang đó.

Sự giáo dục nặng về thực tế, trong gia đình ngày nay, cũng không cho phép cái khả năng thấy ánh hào quang của các tâm hồn còn ngây thơ đó được chú ý.

Như câu cuyện điển hình sau đây:

Bé Tâm có khuôn mặt đẹp và hao hao giống bà ngoại (transmission héréditaire), nên được cậu Út rất thương. Mỗi lần đến thăm, cậu thường nhìn bé Tâm một cách chăm chú, trìu mến, không chán, làm bé Tâm thích lắm. Có mặt cậu trong nhà, tinh thần bé Tâm hân hoan, sung sướng, như muốn biến mình lại còn chút xíu, để chui vào trong hai con mắt của cậu, hầu giữ riêng cậu cho mình, không để cậu thuộc về kẻ khác.(Tâm lý trẻ con).

Hôm nay má bé Tâm mời cậu lại nhà ăn cơm. Khi cậu đến, chợt bé Tâm ngây thơ kêu mẹ hỏi: “má ơi, có cái bóng gì màu đỏ mới chạy xung quang đầu của cậu Út kia kìa? ” Thay vì âu yếm hỏi con xem nó thấy gì, và vui vẻ giảng giải cho con biết, mẹ bé Tâm lại gắt lên “Không được hỗn hào, hãy mau khoanh tay chào cậu đi”. Thế là bé Tâm cụt hứng, chẳng dám nói gì thêm, liền ngoan ngoãn cúi đầu chào cậu, rồi bỏ đi chỗ khác. Bé đinh ninh là mình bị hoa mắt nhận lầm, hay tự tưởng tượng mà thấy như thế. Từ đó về sau, mỗi lần thấy như vậy, bé Tâm vội xem thường rồi bỏ qua, và dần dần bé Tâm mất đi cái khả năng “thấy” ấy. Nghĩa là hoàn cảnh giáo dục bắt bé không tin tưởng vào một số hiện tượng mà đôi mắt bé tự nhiên  thấy nữa.

Ánh hào quang đó là sóng lượng tử (ondes quantques) trong đầu cậu nó hướng về nó, phát ra (transmetteur). Và sức mạnh của tâm trường vô tư, ngây thơ của nó, đã làm cho nó tiếp nhận được sóng lượng tử ấy qua thị giác (récepteur).

Theo vật lý học, thì lượng tử được dịch từ tiếng Pháp là “quant” (sức nặng). Đó là thuyết do một bác học gia người Đức, ông Planck (1854-1947) đã lập ra để giải thích các hiện tượng về hiệu năng và luồng quang điện.

Nhờ sự hiểu biết về lượng tử ấy mà nhà bác học lừng danh Einstein mới có lý do, đưa ra thuyết tương đối (relativisme). Thuyết này nhắc lại chứng nghiệm cũ, là “Khi hai phân tử (vì khoảng trống ở giữa) không chạm vào nhau, không tự phát được xúc năng, thì tuyệt đối không có cảm ứng”. Nhưng khi hai phân tử ấy biểu lộ qua thông trường cơ năng lượng tử thì khác hẳn, khoảng trống ở giữa không còn cách ngại nữa, vì sự “liên lạc” của lượng tử nằm giữa hai phân tử, lại hiện ra dưới dạng sóng quang điện. Sóng quang điện ấy, yếu mạnh tùy trường hợp. Nó chính là ánh sánh (hay hào quang) rất khó thấy, bao xung quanh một vật có điện từ. Trường hợp các tinh tú thì ánh sáng cực kỳ mạnh, “hào quang” con người bình thường nhân lên cả hằng hà sao số tỷ tỷ lần cũng không sao bì kịp.

Trở lại sự tương ứng  của tinh thần trong não bộ, chúng ta có thể căn cứ vào một phát minh khoa học gần đây: Não bộ của con người thường phóng những luồng âm ba (ondes), loang ra đến 40 chu kỳ (vòng) trong một giây đồng hồ, mà con người không hề hay biết.

Chính do những luồng âm ba này mà khi chúng ta lái một chiếc xe trên con đường quen thuộc, chúng ta không phải chăm chú nhiều, nhưng chiếc xe vẫn chạy tốt. Đó là lúc các luồng âm ba tự động thay chúng ta “chú ý”cho sự an toàn.

Hiện tượng này được cắt nghĩa dựa theo “khoa học và tương quan tâm thức trong Phật giáo” như sau: Những luồng “âm ba” ấy đối với não bộ (tượng trưng cho tâm thức hay tinh thần) trong một con người, cũng giống như những nhịp tim đập đối với hơi thở. Không phải vì người sống cố ý muốn cho tim đập thì nó đập, cũng không phải vì họ không muốn thì nó ngưng, mà một cách song song linh động, hễ hơi thở tiếp tục thì tim đập. Cũng như khi toàn thể tế bào trong một não bộ của họ còn hoạt độngtrạng thái bình thường, thì những luồng âm ba (sóng nhân điện) còn được tương ứng phát ra mà không cần có chú ý.

Những luồng âm ba này, trong hầu hết trường hợp, khi loang đi, chạm vào ngoại cảnh, rồi lấy đó làm mục tiêu, thì thoạt đầu chúng tuy phải duyên theo tâm thức (Màna=conscience), xuyên qua ý thức (tức thức thứ sáu), để “đồng sự” một sinh hoạt nào đó. Nhưng khi chúng đã tiếp giáp (va chạm) hết các dữ kiện ngoại cảnh rồi, không còn gì mới để “so sánh”, kết tụ vào đối tượng, cho ý thức phản chiếu nữa, thì chúng tách rời ý thức, để tự vận hành một cách khá chính xác những năng lực chuyển động rất thứ tự theo chu kỳ.

Vả lại, xuất xứ của những luồng âm ba ấy vốn là “linh năng” của “mặt ngoài” A-Lại-Da thức, hay tiềm thức (sub-conscience) phản ánh trên tâm thức. Nên sau đó nó tự nhiên phải hiển lộng cái kỳ diệu độc lập, “bất hợp lý”, của tiềm thức, khiến cho trên suy luận bình thường, chúng ta thấy vấn đề thiếu căn cứ, là: “Lái xe trên con đường quen thuộc, tuy ít chú ý mà vẫn an toàn”. Hiện tượng này Phật giáo gọi là “thục quả” trong hiện tại. Còn khoa học gọi là “phản ứng theo thói quen”.

Nghĩa là khi người ta lái chiếc xe lần thứ nhất đi vào một con đường xa lạ, thì tâm thức khởi đầu được tăng cường qua nhãn thức (thị giác chăm chú), để nhận diện những hình ảnh “mới”. Nhưng khi tất cả đã “biết rồi”, không còn gì đối chiếu với những cái “cũ” nữa, và động tác tiếp diễn chỉ là sự lặp lại, thì ý thức liền buông thả, để cho những luồng “âm ba nhiễm độngkỳ diệu ấy tự phát tác theo chu kỳ nhân và quả, hay phản dụng vì đã tiếp thụ, tức là nó điều động chân tay “làm việc không cần chú ý”, vì đó chỉ là sự xoay vần ngấm ngầm qua ba uẩn (tích tụ) thọ, tưởng và hành.

Nói cách khác, khi những âm ba ấy phát ra theo chu trình thọ-tưởng-hành, “điều khiển” động tác đều đặn rồi, thì sự dồn năng lực của ý thức qua thính giác, xúc giác, và nhất là thị giác (nhãn căn) trong nhân vật lái xe nói trên không còn cần được vận dụng đúng mức như lúc đầu nữa.

Thêm một ví dụ về thục quả trong hiện tại, là khi chúng ta bỏ chân xuống giường, chúng ta ít chú ý đến việc tìm kiếm đôi dép nhưng nhờ “âm ba trường”, của não bộ, loang ra từ xúc giác đôi bàn chân, mà chúng liền có thể mang được đôi dép đúng cách dễ dàng.

Quay lại chuyện não bộ: Chúng ta không phải chỉ có một khối não, mà chúng ta có đến hai khối não, một bên trái, và một bên mặt. Hai khối não này tuy cách nhau bởi một màng gân li ti,  có “diện nhiệt lượng” (corpus callosum) giống như một lớp da mỏng. Bộ phận này động đậy luôn luôn. Nó “chọn lựa” những thông tin, để chuyển từ khối não này sang khối não kia, qua lại hai chiều, chẳng lúc nào được ngơi nghỉ.

Sự nghiên cứu còn cho biết thêm: Người thuận tay trái thì bộ phận lớp da mỏng này nở rộng hơn người thuận tay mặt 11%. Người thuận tay trái thường có nhiều tham vọng. Và người thuận tay mặt thường ít bị kích thích để bộ phận lớp da mỏng này liên lạc nhiều với khối não bên trái.

Mỗi khối não có phần hành riêng: Khối não bên trái là khối não hướng ngoại, chú ý về tìm kiếm, phân tích. Nó thiên về sự so sánh, chọn lựa hợp lý, và bộc phát ra lời. Nó là bộ phận của động cơ tiếng nói, của động tác tay chân, của sự nhanh nhẹn v.v…Nếu khối não bên trái bị thương, thì giọng nói, cử chỉ con người trong đời sống hằng ngày bị ảnh hưởng rối loạn. Nhưng sự hiểu biết vẫn bình thường, vì sự hiểu biết thuộc về khối não bên mặt. Còn khối não bên mặt là khối não hướng nội, trung tâm của sáng kiến, của phát minh. Khối não bên trái tương ứng với Mạt-Na thức (conscience), và khối não bên mặt tương ứng với A-Lại-Da thức.

Như Tam Tự Kinh đã nói: “tánh tương cận, tập tương viễn”. Con người vì quen hướng ngoại, và thích ôm đồm phân tích, lý luận những việc đời xa gần, nên tâm thức “làm việc” đa số với khối não bên trái, thành ra nó chịu ảnh hưởng sâu đậm ngoại giới, hay đối đãi khách quan trộn lẫn với chủ quan, để bảo rằng “ta nói” “ta làm”. (Sinh ra tánhtật).

Tuy nhiên, khối não bên mặt cũng ảnh hưởng không ít đến những sinh hoạt. Nếu khối não bên mặt bị thương, thì thần lực trong giọng nói mất hết linh động, phát biểu ý kiến lộn xộn không ra hồn, vô trật tự và vô mạch lạc, dẫn đến thất bại. vì không hướng ngoại, không bị động, nên khối não bên mặt luôn luôn ở trong trạng thái yên lặng, suy tư, tượng hình (idéogramme). Nhờ đó nó mới phát minh ra nhiều sáng kiến cần thiết cho đời sống loài người.

Nếu khối não bên trái là nơi để tâm thức phóng túng lung tung, hết hiện tại đến quá khứ, hết quá khứ đến tương lai, để so đo mọi chuyện, săn đuổi kinh nghiệm, thì khối não bên mặt thường được dùng vào sự suy tưởng, định tĩnh, khám phá ra (hay giao cảm với) những cái cao xa chưa biết. Khả năng của nó vì vậy mà có tầm sâu rộng hơn.

Nhà hiền triết Marilyn Ferguson còn giải thích việc đó như sau: “Bán cầu bên mặt bộ óc liên hệ với một linh lực Huyền Hư (Force ésotérique), là khối não chủ việc tri cảm sâu sắc, đã có từ thưở xa xưa, với sự cấu tạo đầy huyền bí và hư ảo, thuộc về ký ức của con người. Nó có khả năng tự kích thích, và tự quán chiếu để sinh ra nhiều trạng thái đặc sắc”.

Hơn nữa, trong sinh hoạt hàng ngày, hai khối óc bên mặt và bên trái thường tranh thủ, tìm thế quân bình lẫn nhau. Đó là lý do làm người ta mất nhiều thì giờ vì sự giằng co, giữa những vấn đề mâu thuẫn. Và mâu thuẫn nghĩa là có cả cái đúng lẫn cái sai. Chẳng hạn như “thương người thì phải hy sinh, không hy sinh thì chẳng thương người” mà hy sinh và không hy sinh đều tỏ ra “hợp lý” cả. Tu hành giải thoát và hướng đến giác ngộ cũng tương tự như vậy: Không thể vừa ích kỷ vì mình vừa đại độ vì người cùng một lúc được.

Trong trường hợp này, khả năng của khối não bên mặt đã làm kinh ngạc nhiều nhà nghiên cứu tâm thức không ít. Vì nó tự biểu thị sự thanh cao của tâm hồn, để cho chúng ta ý thức, và tin tưởng vào thiện nghiệp, đạo đức.

Mặt khác, những tín hiệu của khối não bên mặt truyền sang bên trái, không do một đường gân, mà do nhiều luồng từ điện  song hành với nhau. Và vì chúng nó đến từ khối não bên mặt, nên tự động biến thành những khả năng phi thường của trí nhớ (Capacité extraoordinaire numérique).

Khoảng hơn mười năm gần đây, các nhà khoa học còn khám phá ra nhiều khả năng khác của não bộ. Đó là việc khi nó bị kích thích thì tự tiết ra những chất chống đau, như Endrophine, Bêta-Endropine, Enkephaline. Những chất này hoá tánh giống như Morphine (thuốc phiện), nhưng nhẹ hơn nhiều, vì không làm cho người ta lệ thuộc hay “ghiền”.

Còn “phép lạ” nào đã kích thích não bộ làm như thế, thì không ai biết. Và những nhà khoa học ấy cũng cho rằng: Khối não bên mặt là nơi tụ họp của những hoá năng đặc biệt, như vậy rất có thể nó là “trú sở” của linh lực tinh thần (?)

Người ta liền đặt câu hỏi: “Nếu tâm thức (tinh thần) nằm trong não bộ, thì khi một người chết, não bộ ngừng hoạt động, xác thân bị tê liệt, bên trong có một số cơ quan đã hư hỏng, tại sao tinh thần không chịu ảnh hưởng mà vẫn còn nguyên, để đi tái sinh?

Đây là một câu hỏi dựa trên cấu tạo của vật hữu hìnhgiới hạn để định về vật vô hình không giới hạn. Tương tự như nói: “Đèn tắt rồi thì điện lực đi đâu?” Nếu dựa vào hình thức, chỉ cái “compteur” thì người ta bảo đó là một bộ phận ghi con số, chứa cầu chì. Nếu chỉ qua hai dây điện, thì người ta cũng chỉ đó là các sợi đồng bao nhựa. Tức là thị giácxúc giác của con người rất bị hạn chế, thành thử qua nó con người không thể nào thấy hay rờ được những cái chỉ có trí thức mới xác định nổi.

Theo nghiên cứu tâm linh trong nhà Phật, phối hợp với khám phá khoa học, thì tinh thần con người vừa nằm trong não bộ, vừa bao quanh thân thể, nhất là quanh đầu, và giao thoa với “không trường” cực tiểu lẫn cực đại của vũ trụ. Ví như bầu khí quyển vừa ở trong quả đất, vừa bao phủ địa cầu, vừa tiếp giáp với vô biên chân không. Nhờ nó bao trùm thân thể, xuyên trong ngoài như thế, mà ngũ quan xúc giác con người mới chiêu cảm, dung thông biết được ngoại cảnh xa gầnghi nhận, suy nghĩ.

Rồi từ lực (force magnétique) của tinh thần lại luôn luôn gắn liền với các hậu quả dây chuyền trong toàn thể sinh hoạt của một con người. Sự gắn liền này là những thông số (Paramètres) của nhân-nghiệp và quả (hay của bộ ba nhân-duyên-quả hợp lại).

Khi dùng Électro Encéphalographie để đo điện từ ở đầu, thì người ta nhận thấy não bộ thường xuyên hoạt động qua bốn giai đoạn, và phát ra những luồng “âm ba” (ondes tạm dịch là sóng nhân điện) rất đều đặn, mang những tần số (frequences) từ 1 đến 40 chu kỳ trong một giây, được đặt tên và chia ra như sau:

Nếu bộ óc bận rộn (nhiễu sóng tâm) với những vấn đề phức tạp trong đời sống hằng ngày, thì nó phát ra luồng âm ba loạn động cao nhất gọi là Bêta, từ 12 đến 40 chu kỳ trong một giây,. Nhưng khi con số ấy thấp xuống thì chứng tỏ tâm trí được yên tĩnh.

Kế đến là luồng âm ba Alpha, nằm giữa 7 đến 12 chu kỳ một giây. Ở tình trạng “yên tĩnh” (ít phóng tâm suy nghĩ) này, con người có thể dễ dàng đi vào giấc ngủ, hay nếu không ngủ thì đó là trạng thái trầm tư mặc tưởng, nghỉ ngơi.

Tiếp theo, luồng âm ba Thêta nằm thấp hơn, trong khoảng 4 đến 7 chu kỳ một giây, tượng trưng cho trạng thái tinh thần an ổn. Nếu con người chưa ngủ yến, thì đây là lúc họ tịnh tâm dưỡng tánh. Thiền học trong Phật giáo cho đó là trạng thái tương đương với tâm thức gần an trụ vào đề mục (sơ định).

An ổn nhất là luồng âm ba Delta, tính trong khoảng từ 1 đến 4 chu kỳ một giây. Nó chứng tỏ tinh thần lúc ấy nằm yên, tách rời khỏi ngũ quan xúc giác (ngoại cảnh), để ở trong một vị trí “độc lập”. Đây giống như trạng thái của một người được chụp thuốc mê hoàn toàn (Anesthésie génerale), chuẩn bị để giải phẫu.

Ngoài trường hợp phẫu thuật, cũng có người ngủ mê đến nổi “gián đoạn” cảm giác, tiếng động lớn xảy ra bên tai mà vẫn không nghe, thì tinh thần người ấy lúc đó đã chìm sâu trong tiềm thức (Sub-Conscience). nếu so sánh với trình độ tu thiền, thì đây là giai đoạn tương đương với “nhất định”.

Trên đây, soạn giả cố ý viết đậm và gạch chân hai chữ tương đương để lưu ý quý vị rằng: Khi quan sát bề ngoài thì thấy người ngủ mê và thiền giả nhập định có vẻ “tương đương”, vì ngũ quan cảm xúc của họ lúc ấy tạm thời tách rời đối tượng, “ngưng hoạt động”.

Nhưng khi nghiên cứu vào chiều sâu nội thức, thì người ngủ say, nếu thân thể bệnh hoạn, máu huyết chạy không đều, tinh thần họ có thể trải qua nhiều ảo cảnh, mộng mị, kinh hoàng. Trong khi đó, người tu thiền, dù sức khoẻ nằm trong tình trạng nào, nếu đạt được nhất định, thì tâm thức của họ vẫn luôn luôn ở trạng thái rất nhẹ nhàng, thanh thoát, tinh khiết, trong sángan ổn. Điều khác biệt rất quý báu, đáng đề cao nằm ở chỗ đó.

Tuy nhiên, nếu một người nhờ phúc đức kiếp trướcnghiệp lành hiện tại, có thân thể khoẻ mạnh, mà ngủ yên được một giấc Delta như thế, thì họ sẽ cảm thấy sảng khoái vô cùng. Các nhà khoa học còn tiết lộ rằng: Trong vòng 24 giờ đồng hồ, người ta chỉ cần ngủ 1 giờ Delta là đủ để thu hồi sức khoẻ. Xem như thề đủ thấy rằng sự thanh tịnh tinh thần rất bổ dưỡng cho toàn cả thân thể

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34408)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16887)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22998)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13072)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21998)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22242)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14888)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23629)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24170)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17176)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19393)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27122)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14440)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13868)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22720)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14780)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17388)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12701)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13894)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10431)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14733)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17223)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12577)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12746)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10391)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28739)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11155)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16906)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15800)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12576)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11398)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19338)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12287)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28676)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10076)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21604)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17859)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26313)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11736)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10875)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22795)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12077)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10624)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11428)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11549)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant