Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2

17 Tháng Ba 201200:00(Xem: 9017)
Chương 2


NGÕ THOÁT


tức Phương Trời Cao Rộng 3

truyện dài của Vĩnh Hảo

Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996

flowerba


CHƯƠNG HAI

 

 

Anh công an chỉ huy để tôi đứng đợi phía ngoài chừng mười phút, rồi từ văn phòng trại bước ra, anh nói với tôi, giọng lịch sự, cố ý thân mật:

“Thôi mình vào trong này làm việc một chút há.”

Tôi được đưa vào một trong các phòng vấn cung. Các phòng này không được trang trí hay bày biện gì. Chỉ có một cái bàn và hai cái ghế đẩu vuông vức không có chỗ dựa. Anh công an chỉ huy kéo ghế ngồi trước, rồi bảo tôi ngồi ở ghế còn lại. Một anh công an khác cũng bước theo nhưng dừng lại ở cửa phòng, đứng lại tựa lưng nơi khung cửa. Tôi không rõ anh ta đứng đó với trách nhiệm gì. Tất nhiên không phải là để canh chừng tôi trốn chạy. Có trốn chạy thì trốn chạy lúc còn ở ngoài chứ vào tới phòng vấn cung trong trại giam rồi thì làm gì còn có ý đồ đó nữa! Lý do duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra được về sự hiện diện của anh công an trẻ đứng nơi cửa là anh muốn được tham dự việc vấn cung của cấp chỉ huy với một tội phạm trẻ có nghề nghiệp tu sĩ như tôi.

Anh công an chỉ huy soạn ra trên bàn một xấp giấy gọi là “Biên Bản Hỏi Cung”, có in sẵn những chi tiết cần thiết cho việc lập biên bản một tội phạm với lý lịch và sự phạm tội của tội phạm đó. Anh đằng hắng lấy giọng rồi nói:

“Hôm nay Chủ nhật, không phải là ngày làm việc. Vậy chúng ta có thể nói chuyện một cách thoải mái, được không? Chúng ta làm việc cho có thôi, rồi ngày mai mới chính thức. Hùng, có thuốc đó không, không à, ra mua một gói thơm đi.”

Hùng, người công an đứng nơi cửa, mau mắn đi ra ngoài. Thấy Hùng đi rồi, anh công an chỉ huy bắt đầu gợi chuyện:

“Tôi tên Long. Trước kia tôi là một sinh viên của trường Đai học Vạn Hạnh. Anh Khang có học ở đó không?”

“Không. Trước năm 1975, tôi hãy còn ở trung học. Sau năm 1975 thì trường đại học Vạn Hạnh đã không còn nữa.”

“Vậy hả. Ừ phải rồi, trên giấy tờ cho thấy năm nay anh mới hai mươi sáu tuổi, anh trẻ hơn đứa em út của tôi ở nhà nữa. Vậy anh đã lập gia đình chưa? À không, ý tôi muốn hỏi là từ khi anh không mặc đồ tu nữa, ăn vận thường phục, để tóc dài như vầy, anh có quen bạn gái gì chưa, anh có quyền mà, phải không?”

Thấy tôi im lặng, nghiêm sắc mặt, Long cười xòa nói:

“Hỏi đùa chơi vậy thôi chứ tôi biết anh mà,” rồi Long lại đằng hắng, lật lật mấy tờ giấy trong cái bìa kẹp hồ sơ, nói tiếp:

“Thực ra, tôi chẳng vui vẻ gì khi bắt giam một tu sĩ như anh cả. Nhưng tôi phải làm vậy thôi. Anh hiểu mà, phải không? Cái gì cũng có chừng mức của nó. Đến mức độ mà chúng tôi thấy là nguy hiểm cho vấn đề an ninh của nhà nước thì chúng tôi buộc lòng phải ra tay thôi.”

Nghe anh nói thế, tự dưng tôi buột miệng nói:

“Chúng tôi cũng hành động trong một cách thế y hệt.”

“Nghĩa là sao?” Long hỏi lại.

“Cái gì cũng có chừng mức của nó. Đến mức độ mà chúng tôi thấy nguy hiểm cho đời sống dân tộc, chúng tôi buộc lòng phải đứng dậy thôi.”

Long nghe tôi nói vậy thì thay đổi thái độ, mặt đỏ lên, nói:

“Hừm, cái gì gọi là nguy hiểm cho dân tộc chứ! Các anh tưởng là chúng tôi không biết lo cho dân à? Chứ không phải rằng mười năm nay, chúng tôi nỗ lực xây dựng kiến thiết đất nước, quyết tâm đem lại ấm no hạnh phúc cho toàn dân hay sao?”

“Chuyện lo xây dựng đất nước là bổn phận của tất cả công dân, đâu phải là trách nhiệm riêng của những người cầm quyền. Anh tưởng rằng những người không cầm quyền thì không xây dựng đất nước sao?”

“Ừ… có. Nhưng nếu vậy thì nhân dân và cán bộ nhà nước phải hợp tác để phát triển đất nước, chứ sao lại chống đối công việc của chúng tôi?”

“Anh nói vậy là sai rồi. Chúng tôi không chống đối việc xây dựng đất nước. Chúng tôi chỉ chống đối những chính sách sai lầm, và nhất là chống đối chủ trương áp đặt lên đất nước này một thứ chủ nghĩa không thích hợp gì với tình tự dân tộc. Mà thôi, có cần phải bàn cãi gì chuyện đó nữa không khi tôi đã vào đây trong tư cách một tội phạm! Các anh có thói quen không thích lắng nghe tiếng nói của những kẻ bại trận mà, phải không?”

“Cũng cần bàn cãi đấy chứ. Tôi hỏi anh, thế anh hiểu gì về chủ nghĩa cộng sản?”

“Ý anh muốn tôi hay những người dân khác phải tìm hiểu, nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản tường tận trên mặt lý thuyết đó à? Vô ích, mất thì giờ. Tôi đâu cần phải đọc hết  Karl Marx Toàn Tập, Lê-nin Toàn Tập, Mao Trạch Đông Toàn Tập, Hồ Chí Minh Toàn Tập…hoặc đọc hết những kinh điển của cộng sản thì mới hiểu được cộng sản! Cũng vậy, mười lăm năm nay ở chùa, tôi có đọc hết kinh điển Phật giáo đâu, nhưng tôi cũng hiểu được, cũng áp dụng được giáo lý đạo Phật đấy chứ. Mà học thuyết của một tôn giáo, một chủ nghĩa, thực ra có quan trọng gì lắm đâu. Điều quan trọng là khi áp dụng vào thực tế, nó có đem lại lợi ích thực sự cho con người hay không. Các anh đã có bốn mươi năm để áp dụng cho miền Bắc và mười năm để áp dụng cho miền Nam, vậy rồi cái gì đã xảy ra cho đất nước này? Không phải rằng cả nước lầm than đói khổ đó sao? Nhưng cái lầm than đói khổ về vật chất đó cũng có thể cắn răng chịu đựng được đi, còn nỗi thống khổ về tinh thần thì sao? Từ khi các anh cầm quyền, người dân đã mất hết mọi thứ tự do, ai cũng sống nơm nớp, lo sợ, sống mà có cảm giác như mình là kẻ phạm tội! Trước cái thảm trạng đó, các anh nghĩ là chúng tôi phải làm gì?”

“Sao các anh không đóng góp ý kiến, đề nghị sửa sai… vậy có phải là hay hơn các hoạt động chống đối nhà nước không?”

Tôi lắc đầu, cười nhạt:

“Bản thân anh, một cán bộ hay một đảng viên cộng sản, anh có thể đề nghị này nọ lên Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng không vậy? Tất nhiên là không. Anh mà lên tiếng là anh bị khai trừ ngay, hoặc anh cũng trở thành tội phạm như tôi ngay. Mà thực ra, những gì chúng tôi làm, cũng chỉ là một hình thức đề nghị, một hình thức đóng góp ý kiến với nhà nước đó. Nhà nước có chịu nghe đâu. Nhà nước chỉ biết bắt bớ, trấn áp, đè bẹp mọi ý kiến đối lập. Sao nhà nước không tự vấn: tại sao đến các ông thầy tu mà cũng đứng lên chống lại mình?”

Tôi nói ngang đó thì Hùng đem thuốc lá vào. Long có vẻ mất bình tĩnh, môi anh mấp máy cử động, có vẻ như đang cố dằn một cảm xúc nào đó.

Hùng bóc gói thuốc đưa Long rồi bật quẹt lửa. Hùng cũng mời tôi hút, tôi từ chối. Anh rút một điếu, mồi, rồi đứng tựa cửa, vừa hút vừa lắng nghe. Rít vài hơi thuốc, Long lại vào chuyện. Hình như đến lúc này, anh mới thực sự làm việc, dù anh đã nhắc đi nhắc lại đôi lần rằng hôm nay là ngày chủ nhật.

“Tên tuổi và các hoạt động của anh, chúng tôi đã nắm vững. Chúng tôi theo dõi anh từ lâu. Thực ra, muốn bắt anh lúc nào cũng chẳng được. Anh như con cá trong chậu, làm sao thoát khỏi màn lưới thiên la địa võng của chúng tôi, phải không anh Khang, phải không Hùng?”

Hùng nghe Long hỏi đến mình, chỉ bật cười lên một tiếng khô. Tiếng cuời của Hùng khiến tôi nghĩ cách Long nói là chỉ xóa đi cái mặc cảm vô dụng là một lực lượng công an hùng hậu của Sài Gòn phối hợp cả công an tỉnh Đồng Nai, ngày đêm hố ráp, kiểm tra nhiều khu vực và gia cư tình nghi, vẫn không bắt được tôi. Nếu hôm nay tôi không đi ra ngoài thì chưa biết đến bao giờ họ mới tìm thấy tôi mà bắt.

Thấy tôi mỉm cười không tỏ thái độ gì rõ rệt trước câu mào đầu không mấy hay ho, Long bắt vào chuyện khác, có lẽ là câu mở đầu quen thuộc cho việc vấn cung:

“Ở đây, tôi xin đại diện pháp luật làm việc với anh. Tưởng cũng nên báo trước cho anh biết rằng chúng tôi không sử dụng bất cứ hình thức tra tấn hay đánh đập nào đối với các bị can hay phạm nhân, nhất là các tội nhân chính trị như anh. Theo chính sách khoan hồng độ lượng của nhà nước, chúng tôi chỉ lấy khẩu cung của anh và tùy theo mức độ phạm tộixét xử; tuy nhiên, có thể nói rằng mức án của một phạm nhân cũng một phần tùy thuộc vào sự cung khai của phạm nhân ấy. Sự thành thật của anh sẽ có lợi cho anh về mức án cũng như sự cư xử của chúng tôi đối với anh. Vì vậy, chúng tôi yêu cầu anh khai rõ, khai thành thật, tất cả những gì anh đã làm, đồng thời cung khai hết những gì anh biết về đồng bọn của anh, bao gồm những người bị bắt rồi hay đang còn lẩn trốn chính quyền cách mạng,” ngưng một lúc, lại lật lật xấp hồ sơ trong cái bìa cứng, Long nói tiếp, “những người bị bắt trước anh đã cung khai tất cả mọi việc rồi, nhắc cho anh rõ điều đó để tự chọn thái độ khôn ngoan có lợi cho anh trong việc khai cung. Vậy bây giờ, anh hãy thong thả, giống như ngồi tâm sự với bè bạn, kể lại hết tất cả những gì anh và đồng bọn đã làm trong tổ chức gọi là… gì nhỉ, à, Lực Lượng Việt Nam Phục Quốc Nội Biên. Kể lại một cách thành thật, không che giấu, để tỏ lòng ăn năn đối với tội lỗi đã phạm. Đó là lối thoát duy nhất để anh được khoan hồng và lãnh mức án nhẹ nhất.”

“Tôi không thấy có gì hấp dẫn trong những hứa hẹn đó cả. Còn về sự thành thật thì cương vị tu sĩ của tôi đáng tin tưởng hơn các anh, phải không, có cần thiết phải kêu gọi chăng? Thôi thì các anh muốn hỏi gì cứ hỏi, tôi sẽ tuần tự trả lời theo chỗ biết của tôi.”

Long ngập ngừng một lúc rồi mở xấp hồ sơ ra nhìn, không cho tôi thấy. Long hỏi:

“Anh giữ chức vụ gì trong Lực Lượng Việt Nam Phục Quốc Nội Biên?”

“Tôi không giữ chức vụ gì cả,” tôi đáp.

“Sao lại không? Nói thực đi, mới câu hỏi đầu đã thấy anh cố tình che giấu, không thành thực rồi.”

“Tôi có hoạt động nhưng không nhận một chức vụ nào của tổ chức đó cả.”

“Thế lực lượng đó có cấp giấy tờ gì chứng nhận anh là một thành viên của họ không?”

“Hoàn toàn không.”

“Sao ông Bản khai rằng anh là cố vấn chính trị trong giai đoạn đấu tranh và sẽ là một trong những bộ trưởng trong giai đoạn thành công, thiết lập một chính phủ mới?”

“Ha, anh tin lời khai đó à?”

“Thì cũng có cái gì na ná như vậy ông ấy mới khai ra rõ ràng cái chức vụ của anh chứ.”

“Chứ không phải rằng vì tôi từ chối không chịu nhận bất cứ chức vụ nào nên họ, và có thể là cả các anh nữa, gắn cho tôi cái chức cố vấn? Anh không đoán nhìn ra được khía cạnh này sao? Còn chức vụ bộ trưởng của một bộ phận nào đó trong nội các, anh nghĩ cái đó có thể hấp dẫn được một tu sĩ như tôi à?”

“Ai mà biết được các tu sĩ như anh muốn gì. Tham gia một lực lượng chống đối và đòi lật đổ chính quyền để thành lập một chính quyền mới, lẽ nào anh không chọn trước cho mình một thế đứng nào đó? Làm cách mạng mà không mong đợi một phần thưởng nào cho mình cả sao?”

“Ôi, thực buồn cười! Các anh chỉ suy bụng ta ra bụng người thôi. Điều này có nói muôn đời các anh cũng không hiểu nổi. Nhưng nói tóm lại là tôi không nhận bất cứ một chức vụ nào trong lực lượng đó.”

“Lạ nhỉ, hoạt động cho một tổ chức chính trị mà không nắm giữ một chức vụ nào cả. Bảo sao chúng tôi tin được.”

“Tin hay không là quyền của các anh. Phần tôi, tôi khai thực như thế.”

“Vậy trách nhiệm của anh trong tổ chức đó là gì? Anh đảm nhận những công tác gì trong tổ chức?”

“Vì không nhận một vai trò hay chức vụ nào trong tổ chức nên tôi không bị bó buộc phải lãnh một trách nhiệm gì cả. Có chức vụ mới có trách nhiệm. Tôi chẳng có chức vụ nên chẳng có trách nhiệm nào.”

“Ồ, thế là anh vô tội, anh không làm gì hết, anh không biết gì hết. Chúng tôi bắt lầm anh à?”

“Các anh không bắt lầm. Nhưng các anh đánh giá lầm.”

“Nghĩa là sao?”

“Nghĩa là tôi có giúp cho tổ chức ấy một số công việc mà họ nhờ vả. Như vậy trên nguyên tắc của các anh, tôi bị coi như có tội đồng lõa với những người chống chính quyền, và các anh đã bắt đúng. Nhưng các anh không sao hiểu được sự kiện này: không phải tất cả những người đối lập, phản đối chính quyền, muốn cất lên tiếng nói của người dân, đều là những người mong cầu danh vọng hay chức vị, hay bất cứ thứ quyền lợi nào đó cho bản thân họ.”

Long im lặng, ngẫm nghĩ một lúc, rồi xua tay nói:

“Thôi, chuyện đó cũng chẳng can hệ gì. Cứ đi vào vấn đề: anh đã làm những công tác gì để giúp họ?”

“Tôi hướng dẫn cách in tài liệu bằng cách quay ronéo tay với dụng cụ thô sơ tự chế.”

“Gì nữa?”

“Tôi ủng hộ họ mực in và giấy stencil. Một trục quay và khung lụa để in.”

“Coi như gần đủ những dụng cụ cần thiết để in truyền đơn. Còn gì nữa?”

“Hết.”

“Chứ cái máy đánh chữ của ai?”

“Máy đánh chữ? À, máy đánh chữ cũng của tôi.”

“Lý do nào anh sống trên vùng kinh tế mới mà lại sắm máy đánh chữ? Anh có máy đánh chữ trước hay là mới mua khi gặp lực lượng Phục quốc?”

“Tôi mua máy đó từ lâu.”

“Từ năm nào?”

“Đâu lối năm 1982.”

“Để làm gì? Máy của anh có đăng ký không?”

“Đăng ký à? Tại sao phải đăng ký? Tôi chỉ mua máy để đánh những kinh sách khan hiếm mà vùng kinh tế mới không có.”

“Do đâu mà anh biết cách in truyền đơn bằng những dụng cụ tự chế bằng tay?”

“Đã từng thấy người ta làm việc bằng máy in và máy quay ronéo, tự dưng tôi nghĩ ra cách in bằng trục quay tay, mục đích là để tự in lấy các bản kinh ngắn cho phật-tử vùng kinh tế mới, vậy thôi.”

“Chứ không phải có ai bày anh chế cái máy đó sao?”

“Không.”

“Làm sao nhóm Phục quốc biết là anh có khả năng sáng chế cái máy quay ronéo bằng tay để rồi nhờ anh hướng dẫn việc quay in truyền đơn?”

“Có lẽ một người trong nhóm họ có được bản kinh ngắn do tôi tự in cho chùa từ mấy năm trước nên đã nghĩ đến chuyện nhờ vả tôi.”

“Sáng nay anh đi đâu mà có mặt trên chiếc xe lam Hàng Xanh-Thủ Đức?”

“Tôi có quyền đi lại không vậy?”

“Dĩ nhiên trước khi vào đây, anh có quyền đi lại như mọi công dân khác, nhưng hiện nay anh đang là bị can của chúng tôi, tôi có quyền điều tra nguyên do nào anh đi Thủ Đức?”

“Tôi đi chơi, không được sao?”

“Anh không đi chơi. Anh là tòng phạm đang bị truy nã. Chúng tôi biết anh không đi chơi.”

Tôi bị bắt buộc phải nghĩ thật nhanh đến hai nhân vật cuối cùng tôi gặp sáng nay trước khi bị bắt. Hân và ông Tư. Một người là tu sĩ Phật giáo hoàn tục; một người là tu sĩ Thiên Chúa giáo, không biết tên, chỉ quen gọi là Thầy Tư–có lẽ là một chức sắc nào đó của nhà thờ mà tôi rành. Lẽ nào Hân và ông Tư có dính dấp đến công an, tức là họ có can dự vào việc bắt tôi sáng nay? Có thể lắm, nhưng dầu sao đó cũng chỉ là nghi vấn, chưa xác định được. Nghĩ vậy, tôi bèn tránh đề cập đến hai nhân vật đó, tôi nói:

“Ở Thủ Đức có nhiều chùa nổi tiếng như Nam Thiên Nhất Trụ, Hoa Nghiêm, Tu viện Quảng Đức… Tôi muốn đi thăm viếng các chùa ấy, được không vậy?”

“Dĩ nhiên là được. Nhưng anh quen ai ở các chùa đó?”

“Không quen ai cả. Đi chùa thì có cần thiết phải quen ai mới đi.”

“Nhưng khi đi, hẳn anh phải nghĩ trước trong đầu là sẽ đi chùa nào, phải không?”

“Phải, chùa Nam Thiên Nhất Trụ,” tôi đáp nhanh vì biết chùa này nằm trong hệ thống giáo hội nhà nước.

Long ghi chú vào sổ tay một lúc rồi đứng dậy:

“Thôi được, ngày mai chúng ta sẽ làm việc tiếp. Anh đi theo tôi.”

Long đi trước dẫn đường. Hùng ra dấu chờ tôi đi trước rồi bước theo sau lưng tôi. Đi ngoằn ngoèo một lúc qua các phòng vấn cung, bỗng dưng Long quay lại hỏi:

“Anh Khang là bà con gì đó của sư cô Trí Hải, phải không?”

“Phải.”

“Anh muốn gặp cô ấy không?”

“Muốn.”

Chẳng hiểu vì lý do gì, Long lại tỏ vẻ dễ dãi với tôi về chuyện này. Long rẽ sang bên phải, đến trước một phòng giam rộng với cánh cửa lớn có song sắt. Long bảo tôi đứng chờ ở phía trước, cách phòng giam đó khoảng mười thước. Qua chấn song sắt, tôi thấy lố nhố mấy chị nữ tù, chẳng biết tội gì. Họ có vẻ thong thả qua lại vì phòng rộng, nhưng nét lo âu và buồn bã vẫn hiện rõ trên những khuôn mặt xanh xao đó. Long nói với mấy người nữ tù đứng gần song sắt:

“Gọi giùm sư cô Trí Hải đi.”

Đám nữ tù lăng xăng một lúc rồi dạt ra hai bên, nhường khoảng trống cho sư cô Trí Hải bước đến song sắt. Long hỏi ngay khi thấy sư cô:

“Sư cô nhận ra ai đây không?”

“Sư cô không trả lời, chỉ nhìn tôi gật đầu, rồi cười tươi. Tôi cũng chào lại cô bằng một nụ cười. Sư cô hỏi:

“Khang mới vào hả?”

Tôi đáp:

“Dạ. Cô khoẻ không?”

Sư cô lại gật đầu, cười. Cô nhìn kỹ tôi từ đầu đến chân như quan sát một cái gì mới lạ. Lạ cũng phải. Cô ấy không có gì thay đổi; còn tôi thì đã mang hình thức khác với hình thức tu sĩ trước đây mà cô từng gặp. Tôi đã mặc áo quần của người thế tục, lại để tóc dài, mang kiếng cận. Hình như cô thoáng ngậm ngùi về sự thay đổi này của tôi. Nhưng chỉ một khoảnh khắc, nét mặt cô đã trở lại ngay với vẻ rạng rỡtrầm tĩnh cố hữu. Nhìn nét mặt và phong thái của sư cô, tôi biết cảnh tù không ngăn ngại gì đến cái tâm an lạc, siêu thoát ấy. Tôi yên lòng từ giã sư cô, theo Long qua dãy phòng giam C1. Nhưng cán bộ trực của dãy này cho biết đã hết chỗ trống. Long bèn đưa tôi qua dãy C3. Ở đây cũng có một bàn gỗ đặt ở đầu dãy. Viên cán bộ trực ngồi ngáp, thấy Long thì vội vàng đứng dậy chào, rồi ngạc nhiên nhìn tôi. Long và cán bộ trực nói nhỏ với nhau, nhưng tôi vẫn nghe:

“Thứ đặc biệt. Còn biệt giam trống không?”

“Báo cáo đồng chí, để xem lại sổ… Coi nào, còn một chỗ, nhưng phòng này ăn thông với phòng kia, phòng kia có một người, như vậy là phải giam chung rồi.”

“Xem còn phòng nào khác không?”

“Báo cáo đồng chí, không ạ. Chỉ còn duy nhất phòng đó là trống một chỗ thôi.”

“Ai bị giam trong phòng ấy vậy?”

“Báo cáo… một tên tình nghi phản cách mạng.”

Long do dự một lúc, rồi gật đầu nhẹ. Vậy rồi Long giao tôi cho anh cán bộ trực đó. Anh cán bộ bảo tôi bỏ hết đồ đạc lên bàn. Tôi có mang theo gì đâu. Một cái khăn tay. Một ít tiền bạc, một đồng hồ đeo tay điện tử mà một người bạn mới tặng, một cái mũ cát-két, một giây nịt da và một cặp kiếng cận (thực ra chỉ là mắt kiếng trong, tôi chỉ dùng để cải trang lúc ra đường). Cán bộ đưa trả tôi cái khăn tay, còn bao nhiêu thứ linh tinh khác, anh lùa hết vào hộc bàn. Chẳng thấy ghi sổ sách hay giấy chứng nhận là có giữ vật dụng cá nhân. Tôi cũng chẳng thắc mắc về chuyện ấy, cứ tưởng bị tù thì phải bị tịch thu hết đồ đạc nên im lặng, không đòi hỏi giấy kê khai. Chỉ có tên tôi là được ghi vào cuốn sổ to mà thôi. Theo sau tên tôi, ở cột kế tiếp trong cuốn sổ, là một dòng chữ để phân biệt tôi thuộc loại tù nhân gì: phản cách mạng.

Viên cán bộ trực còn kỹ lưỡng bảo tôi đứng thẳng đưa hai tay lên trời để anh khám xét lần nữa. Khám xong, anh đưa tôi đến phòng biệt giam sô 9. Phòng biệt giam bít bùng, đứng ngoài chỉ thấy như một bức tường sắt, có then bằng thép đúc, xỏ ngang hai cái ngàm cũng bằng sắt, đầu then được khóa bằng hai ổ khóa lớn. Cánh cửa dày khép kín, không song; phía trên, ngang mặt một người đang đứng có một lỗ thông gió hình chữ nhật, kích thước cỡ một quyển sách. Lỗ thông gió cũng có cánh cửa nhỏ, được kiểm soát bằng cách mở ra bên ngoài, có một then sắt cài ngang, xỏ vào một cái khuy nhỏ.

Cán bộ lấy chùm chìa khóa nặng trĩu, lần dò tìm cái chìa mang số 9. Cửa mở ra, anh hất cằm, ra dấu bảo tôi bước vào.

Một mùi hôi nồng nặc bốc lên. Tôi chưa kịp nhìn rõ bên trong căn phòng giam thì cánh cửa đã đóng ập lại sau lưng kéo theo một chuỗi âm thanh khô khan của khung sắt rỉ sét, rồi có tiếng khóa cửa lách cách bên ngoài. Tôi đứng im, lắng nghe. Tiếng khóa cửa lúc đó khiến tôi một lần nữa lại nẩy ra ý tưởng lạc quan rằng, cuộc sống mới của tôi hôm nay được khởi đầu bằng hành vi khép lại; mà sự khép lại đó rõ ràng là giống như việc bế quan nhập thất của những nhà tu trong cửa chùa. Dù tự nguyện hay miễn cưỡng, sự bế quan ấy cũng có ý nghĩa hỗ trợ cho việc khép chặt mối tương giao vốn đa tạp phiền toái với cuộc đời.

Lúc đó mới mười một giờ trưa nhưng trong phòng tối om om. Tôi đứng lặng một lúc để ngắm kỹ cái thế giới mới lạ đang chờ đón mình và cũng để lắng nghe tận cùng những cảm xúc đang cháy lên trong tôi. Không có sự sợ hãi, cũng không có sự buồn chán, tuyệt vọng nào. Chỉ thấy một cơn rùng mình thoáng qua, cái còn lại là sự an nhẫn, chịu đựng–như con chó đang rùng mình để giũ đi những bùn đất hay nước bám vào bộ lông của nó. Sau đó là trạng thái nghỉ ngơi.

Khi mắt đã quen được bóng tối trong phòng, tôi mới nhớ lại lời của viên cán bộ trực nói với Long khi nãy, rằng đây là một căn phòng đôi. Đứng ở ngoài thì thấy phòng 8 và 9 riêng biệt, vì mỗi phòng đều có cửa sắt riêng. Nhưng vào trong thì hai phòng chỉ là một. Cái vách ngăn đôi giữa hai phòng đã bị đập phá. Dấu vết của vách tường ngăn đôi vẫn còn để lại vài chỗ lởm chởm trên nền xi măng. Diện tích mỗi phòng được gần ba mét vuông mà cái cầu tiêu đã chiếm hết một phần ba rồi. Bên cạnh cầu tiêu có một vòi nước. Như thế, cái phòng đôi tôi có đến hai cái cầu tiêu và hai vòi nước.

Trong góc phái bên phòng 8, tôi thấy lù lù một bóng người đang chăm chú nhìn tôi. Người ấy cũng im lặng từ nãy, bây giờ thấy tôi nhìn, mới cất tiếng hỏi với giọng ồm ồm của một người đàn ông đứng tuổi:

“Mới bị bắt hả?”

“Vâng, mới bị sáng nay.”

“Tội gì vậy?”

Tôi ngập ngừng một lúc rồi trả lời:

“Chính trị.”

“Chính trị! Cha, chính trị mà sao trẻ quá vậy. Tiếc thật! Thôi, cởi đồ ra cho mát đi.” 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14876)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17808)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18221)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15000)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13198)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21169)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32596)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15325)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12837)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27543)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34971)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17753)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12652)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32476)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19462)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14088)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53185)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11666)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14314)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13435)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34182)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16212)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14204)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13569)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15922)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22989)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13910)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24984)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31337)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15565)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant