Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đuốc xưa vẫn sáng

28 Tháng Ba 201200:00(Xem: 15070)
Đuốc xưa vẫn sáng
ĐUỐC XƯA VẪN SÁNG
Nguyên Cẩn

blankNgọn lửa của tự dodân chủ

Thế giới hôm nay đang dậy sóng. Từ Tuynisie sang đến Ai Cập, Lybia, Yemen, Barhain…, những làn sóng người biểu tình không ngừng nổi lên, có nơi đã biến thành bạo lực, thậm chí nội chiến. Con người ta, nói như một nhà văn, không chỉ sống bằng bánh mì mà còn cần đến cả bầu không khí tự do để thở, để sống và để được làm người. Bao lâu tiếng nói con người còn bị vùi dập, bao lâu quyền được sống của con người còn bị chà đạp, chừng ấy người còn tranh đấu, đòi hỏi sự công bằng phải được thực thi. Ngọn đuốc sống Mohamed Bouazizi đã khởi đầu thắp lên trận chiến vì công lý ấy và nó đã thành công khi khích động hàng triệu con tim nhân loại đang khát khao… được sống đàng hoàng trong một đất nước dân chủ và nhân bản… Chúng ta tự hỏi trong cuộc đấu tranh ấy, tôn giáo đóng vai trò gì – người hỗ trợ tinh thần hay kẻ dẫn dắt vô hình? Chúng ta nên biết những nhà lãnh đạo đang bị phản kháng hôm nay đã có thời là… người hùng của nhân dân của họ như Mubarak, như Gadaffi… khi họ chiến đấu vì lý tưởng của tổ quốc; nhưng rồi quyền lực, sự lạm dụng, lòng tham và tư lợi đã khiến họ u mê và xa rời quần chúng, rơi vào vòng xoáy vô minh, gây ra bao nhiêu bất công lầm than trong xã hội. Họ đã phản bội lý tưởng ban đầu của họ, phản bội lại cuộc cách mạng do chính mình dẫn dắt…

Ngọn đuốc của Phật pháp trên thế gian

Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ. Không phải ngẫu nhiên mà Albert Einstein nhận định:

Nếu có một tôn giáo nào trong tương lai thỏa mãn được yêu cầu khắt khe của triết học – khoa học ủa nhân loại thì đó chính là Phật giáo”. Tinh thần dân chủ của Phật giáo được thể hiện ngay cả trong niềm tin. Chúng ta vẫn nhớ lời kinh Kalama: “Hỡi người Kalama, không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì phong tục truyền lại như thế; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì lời đồn đãi như vậy; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ước đoán như vậy; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì vẻ bề ngoài; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì thành kiến của mình; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì vị tu sĩ thốt ra dnày đã được người ta kính trọng từ trước. Tuy nhiên , khi tự các người hiểu rằng: những điều này không hợp luân lý; những điều này đáng bị khiển trách; những điều này bị các bậc thiện trí thức cấm đoán; nếu thực hiện những điều này sẽ bị phá sảnphiền muộn, thì hẳn các người phải từ bỏ không làm điều ấy. Còn khi tự các người hiểu rõ rằng: những điều này hợp luân lý; những điều này không bị khiển trách; những điều này đã được các bậc thiện trí thức tán dương; nếu thực hiện những điều này sẽ được an vui hạnh phúc, thì hẳn các ngươi sẽ hành động đúng như vậy”.

Phật giáo còn dân chủ cả trong phương pháp và nguyên tắc tu học của Tăng già. Người Phật tử khi hành lễ không cầu xin ân huệ hay phước báu trên cõi đời như lời kinh dẫn: “Năng lễ sở lễ tánh không tịch”. Nhận thức ấy khiến, người Phật tử hiểu rằng “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm điều ô nhiễm; chỉ có ta tránh điều tội lỗi; chỉ có ta gội rửa cho ta; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta; không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch” (Kinh Pháp Cú). Thế nên Phật di huấn rằng: “Các con hãy tự thắp đuốc soi đường lên mà đi”. Tất cả nói lên sự giác ngộ tự tâm, không mong cầu tha lực.

Phật giáo còn dân chủ trong sinh hoạt Tăng già, thể hiện qua những việc sau:

a- Trong giáo đoàn, không có việc phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ học vấn… Khi xuất gia thì vua quan hay quý tộc cũng bình đẳng với thường dân. Thật vậy

Hầu như không có bất cứ một sự hạn chế nào cho người xuất gia, không có giai cấp, giới tính bị hạn chế, điều mà rất phổ biến vào xã hội thời đó. Nam nữ ít nhất 15 tuổi đều được xuất gia… Phật sự ở các tự viện được điều hành bởi một cuộc họp thông lệ của các Tăng, với một hệ thống thủ tục chuẩn mực theo trật tự ,trong đó , mọi quyết định đều cần sự đồng thuận của Tăng chúng”.
(Luận văn Tiến sĩ – Thích Hạnh Đức – Buddhist Scocial Thought as represented in The Pali Suttapitaka – Bản Việt dịch : Vương Thị Minh Tâm).

Chúng ta có thể nhận ra khái niệm dân chủ và quyền bình đắng này trong các kinh Khởi Thế Nhân Bổn và kinh Trường Bộ.

b- Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, chúng ta có thể tìm ra nhiều thông tin về quan điểm chính quyền do nhân dân lãnh đạođiều hành bằng nguyên lý dân chủ, cụ thể qua lời dạy Đức Phật nói với ngài A-nan về bảy điều kiện giúp đất nước thịnh vượng, cụ thể là người Vajjians, để không rơi vào tay kẻ thù trong đó chúng ta cần lưu ý 3 điều đầu tiên là:

- Người Vajjians thường xuyên tổ chức các buổi họp cộng đồng và dòng tộc.

- Người Vajjians gặp nhau trong thân ái và tôn tạo tình thân ái, thực hiện công việc trong tình thân ái.

- Họ không ban hành điều gì mà chưa được thiết lập, không bãi bỏ điều gì đã ban hành, và hành động phù hợp với thế chế xưa đã được thiết lập… “Sự chuyển giao đáng kể đến với thế giới trong lời Phật dạy rằng không có nền dân chủ nào sống sót nếu thiếu sự hòa hợp của các thành viên trong hội đồng. Đó là lý do vì sao ý nghĩa chính trong Tăng già là sự hòa hợp”. (Thích Hạnh Đức, sđd)

c- Sau khi nói với quan thượng thư nước Ma-kiệt-đà về bảy điều kiện thịnh vượng cho đất nước, Người đi gặp các đệ tử ở thành Vương Xá và nói với Tăng chúng về bảy pháp bất thoái:

1- Thường xuyên hội họp Tăng chúng.

2- Sống hòa hợp.

3- Gìn giữ giới luật đã ban hành và không bãi bỏ những gì đã thiết lập.

4- Tôn kính các vị trưởng lão.

5- Không rơi vào ảnh hưởng của tham ái để dẫn đến tái sinh.

6- Vui sống an tịnh.

7- Tu tập chánh niệm tỉnh giác.

d- Pháp môn Lục hòa là nguyên tắc sống và sinh hoạt cho giới xuất gia cùng tu tập trong một ngôi chùa. Nó phá bỏ đặc quyền hay ranh giới giai cấp. Đức Phật dạy rằng: “Không có giai cấp trong một giọt máu cùng đỏ, trong giọt nước mắt cùng mặn”.

Sử gia Ấn Độ Ramesh Chandra Majumdar gọi Đức Phật là vị Tổ của nền dân chủ bởi vì chính Người đã dựa trên cái gọi là truyền thống dân chủ trong nền chính trị Ấn Độ cổ xưa. Trong đó người ta được tranh luận cho điều phóng khoáng hơn là tuân theo sự phân loại chính trị theo những thể chế hẹp hòi. Chính vì tinh thần ấy mà ngàn xưa, việc bầu cử trong Tăng chúng đã được tiến hành vì “Vận động bầu cử mà duy trì giới luật mà không chia rẽ Tăng chúng. Những cuộc vận động như vậy được giới thiệu vì các Hòa thượng rất quan tâm về việc sống còn của sự nghiệp tôn giáo: mối bất hòa trong các thành viên là nỗi lo ngại lớn nhất của tất cả hội đồng và nước Cộng Hòa Ấn Độ” (THĐ –sđd ).

Thế là đã rõ, tinh thần dân chủ thắm đẫm trong giáo lý nhà Phật thể hiện trong tư duy, trong sinh hoạt, trong phương pháp hành trì tu học, trong quan điểm Nhân duyênNghiệp lực khi mà xã hội thế giới này đẹp hay xấu, vui hay buồn, hòa bình hay chiến tranh là do con người với tư cách là chủ thể từ ba nghiệp –thân, khẩu, ý mà ra…

Lý tưởng vẫn sáng ngời

Đi tìm hay xây dựng một xã hội lý tưởng vẫn là mơ ước ngàn đời của nhân loại, nhưng tại sao vẫn có lúc, có nơi cảm thấy tuyệt vọng trong cuộc hành trình đi tìm “miền đất hứa” ấy dù lý tưởng của cuộc cách mạng nào cũng cao đẹp và mang nhiều mỹ từ bay bổng: công bình xã hội, văn minh giàu đẹp… hay cụ thể hơn như “cơm no áo ấm, bánh mì và việc làm”…

Làm thế nào để có được một xã hội ấy, cái xã hội mà trong đó sự bình đẳng, tinh thần dân chủ và những quyền con người được tôn trọng, nơi mà tiến bộ đạo đứctâm linh được khuyến khích và người dân quan tâm đến đời sống đạo đức, hôm nay vẫn còn là một thách thức ở phía trước, dù người ta có nhắm mắt cũng vẫn hình dung được những nét căn bản của nó.

Đó là một xã hội mà sự phân hóa giàu nghèo được thu hẹp, sự bình đẳng về cơ hội sống và làm việc được xác lập, người thiếu thốn, bệnh hoạn, già nua được giúp đỡ, trẻ em được nuôi dưỡng chu đáo, người người sống chan hòa trong tình thân ái, mang hạnh phúc và ánh sáng lại cho những kẻ đau khổ và lầm lỗi.

Trong xã hội ấy, Phật dạy cần thực hiện ba điều đạo đức sau đây: “tránh làm điều ác, tu tập điều lành và tịnh hóa tâm mình”. Đó cũng là một xã hộivăn hóa, biết ban bố phúc lợi đồng đếu cho mọi thành viên, không phân biệt nguồn gốc xuất thân, giới tính và địa vị xã hội. Tóm lại, đó là một xã hội vận hành trên nền tảng nhân bản, mà vị tha là phẩm chất, hòa hợp là nguyên lý tồn tại, không có sự tranh chấp, xung đột giữa cá nhâncá nhân, cá nhânxã hội, giữa con người với môi trường thiên nhiên… một cuộc sống quân bình trên nhiều phương diện.

Đức Phật với tư cách là một nhà cải cách xã hội trong ý nghĩa đạo đức, đã không chấp nhận hệ thống xã hội dựa trên giai cấp của Bà-la-môn; không đánh giá một con người dựa trên vị trí xã hội khi họ sinh ra. Chính sự phát triển tâm linh hướng thiện và hướng thượng của con người làm cho họ trở nên đạo đức và chính động cơ xấu xaviệc làm cụ thể của con người làm cho họ trở thành một kẻ ác độc.

Mô hình xã hội lý tưởng của đạo Phật hay của bất kỳ nhà xã hội học nào cũng phải dựa trên sự bình đẳng, tính công minh và đạo đức. Những hình phạt hay pháp chế chỉ nhằm răn đe và uốn nắn con người sống tốt hơn, đẹp hơn, vị tha hơn… Nếu chỉ dùng hình luật, xã hội sẽ trở thành nơi cải huấn, trừng phạthiệu quả rất thấp vì sự tự giác đã biến mất; thay vào đó là thái độ luồn lách, đối phó, “khôn vặt”, và sự tiến bộ sẽ không đi kèm theo sự an lạc trong xã hội. Những nhà lãnh đạo, nhất là chính quyền, đều phải ý thức về điều này trong quá trình xây dựng tổ chức, cộng đồng, đất nước… Nơi nào sự bất công áp bức, mầm bất thiện còn tồn tại thì ngọn lửa đấu tranh vẫn có nguy cơ bùng lên, và đó chính là lời cảnh báo cho sự bất ổn tiềm tàng như mạch nước ngầm đang tuôn chảy. Chỉ có con đê hòa hợpcon đường nhân ái mới khiến mạch nước ấy chảy vào dòng sông hạnh phúc.

Ngàn năm qua, lý tưởng Phật vẫn làm ngọn đuốc sáng soi lương tri nhân loại và nhiều ngàn năm sau nữa, lý tưởng ấy vẫn là vĩnh hằng, bất biến!

(Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo 128)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14564)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14359)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13274)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12644)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25237)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27876)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26351)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17230)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15916)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22138)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17132)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24907)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21963)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19067)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16170)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16782)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14665)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16703)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18776)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14777)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14373)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16614)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12923)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14944)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14603)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28024)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27189)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14347)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20964)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24178)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28686)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14734)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13286)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16455)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27235)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16077)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21488)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12377)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
(Xem: 26225)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant