Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Năm uẩn trong Kinh Xà dụ

11 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12122)
22. Năm uẩn trong Kinh Xà dụ


22. NĂM UẨN TRONG KINH XÀ DỤ

Trong Kinh Trung Bộ, có nhiều kinh đề cập đến năm uẩn như Đại Kinh Mãn Nguyệt (Số 9, Trung Bộ Kinh), cũng rất quan trọng không kém. Nhưng nay, chỉ lựa Kinh Xà Dụ, vì muốn nhấn mạnh những tai hại do chấp năm thủ uẩn là tự ngã và đường hướng giải thoát là sự thoát ly khỏi sự chấp thủ năm thủ uẩn.

Như chúng ta đã biết, nói đến năm thủ uẩn là nói đến con người của chúng ta, gồm có sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, cũng có khi được phân tích thành sáu giới, tức là địa giới, thủy giới, phong giới, không giớithức giới. Dùng danh từ "thủ uẩn" hàm nghĩa sự tập họp tác thành con người của chúng ta, và sự tập họp chỉ có thể tác thành, nhờ sự nắm giữ, chấp thủ.

Trong Kinh Xà Dụ, đức Phật đề cập đến sáu kiến xứ, chớ không phải là năm. Chấp thủ năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức là của ta, là ta, là tự ngã của ta. Ngoài năm kiến xứ ấy, những ai khởi lên tư kiến "Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, ta sẽ sống, thường hằng, thường tại, sống như vậy mãi mãi không có biến hoại" Đây là kiến xứ thứ sáu, lập thành sáu kiến xứ, xem như vầy: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này tự ngã của ta". Đây là thái độ của các vô văn phàm phù, không yết kiến các bậc Thánh, các bậc chân nhân, cho nên chấp sáu kiến xứ này là tự ngã và do vậy, chịu đựng bao nhiêu phiền lao nhiệt não. Trái lại, các hàng đa văn Thánh đệ tử, thường yết kiến các bậc thánh, các bậc chân nhân, tu tập pháp các bậc Thánh, các bậc chân nhân, không chấp thủ sáu kiến xứ này là tự ngã, và như vậy thoát ly các lo âu phiền muộn.

Đến đây, Thế Tôn trả lời các câu hỏi của vị Tỷ-kheo, hỏi rằng có thể có cái không thực có ở ngoài có thể gây ra phiền mụôn. Thế Tôn đáp có. Nếu có người suy nghĩ như sau: "Cái này chắc chắn đã là của tôi nay chắc chắn không còn là của tôi nữa. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi chắc chắn tôi không được cái ấy, Suy nghĩ như vậy, vị ấy sầu muộn, than vãn, đập ngực, đi đến bất tỉnh. Như vậy có cái không thực có ở ngoài, có thể gây ra lo âu phiền muộn". 

Vị Tỷ-kheo hỏi tiếp: "Có cái không thực có ở ngoài mà không gây ra lo âu phiền muộn?" Thế Tôn đáp: "Có cái không thực có ở ngoài mà không gây ra lo âu phiền muộn. Ở đây có người không suy nghĩ như sau: 'Cái này chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy'. Do không suy nghĩ như vậy, nên người ấy không sầu muộn than vãn, khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Như vậy, có cái không thực có ở ngoài, mà không gây ra lo âu phiền muộn". 

Vị Tỷ-kheo hỏi tiếp: "Có cái gì không thực có ở trong, có thể gây ra lo âu phiền muộn?" Thế Tôn đáp: "Có thể có. Ở đây, có người có tà kiến: 'Đây là thế giới, đây là tự ngã. Sau khi chết, ta sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển'. Khi được nghe Thế Tôn hay đệ tử Thế Tôn thuyết pháp để để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên kiến, tùy miên, làm tịnh chỉ tất cả hành, từ bỏ các sanh y, diệt trừ tham ái, đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn; thời người ấy suy nghĩ: 'Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, sẽ bị hoại diệt, sẽ không tồn tại'". Như vậy vị ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Như vậy có cái không thật có ở trong, nhưng có thể gây ra lo âu phiền muộn. Nếu người ấy không có tà kiến nghĩ rằng sau khi chết sẽ tồn tại, mãi mãi, không biến hoại, thì dầu có nghe Thế Tôn hay đệ tử Thế Tônthuyết pháp để bạt trừ khát ái, thời vị ấy không có nghĩ sau khi ta chết ta sẽ bị đoạn diệt, sẽ bị hoại diệt. Do không suy nghĩ như vậy, nên vị ấy không sầu muộn, than vãn, than khóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Như vậy là có cái không thực có ở bên trong không gây nên sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh..."

Như vậy, chúng ta có thể nói, nhờ không rơi vào sáu kiến xứ, không chấp nhận các kiến xứ là của ta, là ta, tự ngã của ta, nên chận đứng được các phiền lao nhiệt não, khiến chúng khôgn khởi lên.

Tiếp đến, đức Phật trình bày rất rõ ràng, phàm sở hữu gì được nắm giữ, sở hữu ấy không thể thường còn, thường hằng mãi mãi mà phải hoại diệt. Như vậy mọi tà kiến chấp sáu kiến xứ là của ta, là ta, là tự ngã của ta, là nguồn gốc của mọi đau khổ, sầu muộn than vãn. Tiếp đến, đức Phật xác nhận với các Tỷ-kheo, phàm có ngã luận thủ gì, nếu chấp thủ ngã luận thủ ấy, thời khởi lên sầu bi khổ ưu não. Phàm y chỉ kiến y gì, thời cũng khởi lên sầu bi khổ não. Hơn nữa, thật là ngu si ám độn, khi đã thấy ngã và ngã sở thuộc đều không thể chấp nhận là thường còn, thường hằng, mà còn chấp kiến xứ. "Đây là thế giới, đây là tự ngã. Sau khi chết, ta sẽ sống thường hằng, thường tồn." Thật là tối thượng ngu si mới chấp các kiến xứ tự ngã.

Không những chấp sáu kiến xứngu si và là nguồn gốc phát sinh đau khổ vô lượng vô biên; và vì muốn cho chúng sinh thoát khỏi mê hồn trận này, đức Phật dạy, cần phải chánh quán năm thủ uẩnvô thường, là khổ... cái này không phải của tôi, không phải là tôi, không phải tự ngã của tôi. Và cuối cùng đức Phật trải rộng thuyết vô ngã đối với toàn thể sự vật như sau: "này các Tỷ-kheo, bất cứ sắc pháp nào... bất cứ cảm thọ nào... bất cứ tưởng nào... bất cứ hành nào... bất cứ thức nào quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức là: "Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta".

Đến đây, Thế Tôn khuyên các vị Tỷ-kheo: "Nên từ bỏ cái gì không phải của ta, từ bỏ như vậy sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ngươi. Sắc không phải của các ngươi,... Thọ không phải của các ngươi,... Tưởng không phải của các ngươi,... Hành không phải của các ngươi,... Thức không phải của các ngươi. Hãy từ bỏ năm thù uẩn. Từ bỏ năm thù uẩn sẽ đưa lại hạnh phúc cho các ngươi. Như trong rừng Jetavana này, nếu có người thâu lượm cỏ lá cành cây lại rồi đốt chúng. Làm như vậy, không phải thâu lượm chúng ta và đốt chúng ta. Vì sao vậy? Vì chúng ta không phải tự ngã hay không phải sở thuộc của ngã. Cũng vậy, cái gì không phải của các ngươi, hãy từ bỏ chúng. Năm uẩn thủ không phải của các ngươi. Hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng sẽ đem lại hạnh phúc an lạc cho các ngươi".

Cần phải như thật quán với chánh trí tuệ. Và chính nhờ chánh quán như vậy, vị Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát có trí khởi lên biết được đã giải thoát. "Sanh đã tận. Phạm hành đã thành. Những gì nên làm đã làm. Không còn trở lui tại đây với một đời sống khác".

(Trung Bộ I, số 22)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34402)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16886)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22993)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13070)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21994)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22237)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14886)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24158)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23686)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17168)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19387)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27110)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14438)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13864)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22713)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14778)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17387)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12699)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13893)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10429)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14729)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17222)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12573)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12744)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10389)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28738)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11153)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16905)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15797)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12572)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11394)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19334)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12284)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28663)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10071)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21595)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17854)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26301)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11729)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10873)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22785)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12070)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10622)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11427)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11549)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant