Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Xã hội tân tiến và truy tầm hạnh phúc cho loài người

11 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 7607)
Chương 1: Xã hội tân tiến và truy tầm hạnh phúc cho loài người



Chương 1
XÃ HỘI TÂN TIẾN

TRUY TẦM HẠNH PHÚC CHO LOÀI NGƯỜI

 
Tôi là một người tương đối mới đến thế giới tân tiến. Mặc dù tôi rời bỏ quê nhà rất lâu về trước, vào năm 1959, và mặc dù từ đó cuộc đời như một người tỵ nạn trên đất Ấn độ, đã cho phép tôi được tiếp xúc gần cùng xã hội hiện đại, nhưng những năm tháng tôi được tạo dựng hầu như tách biệt khỏi hiện thực của thế kỷ hai mươi. Một phần do sự kiện tôi được chỉ định làm Đạt lai Lạt ma: tôi trở thành tăng sĩ từ khi còn rất bé. Điều này cũng phản ánh một sự kiện khác
là người Tây tạng chúng tôi đã chọn — nhầm lẫn, theo ý tôi — sống biệt lập phía sau các dãy núi chia cách đất nước chúng tôi cùng thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, ngày hôm nay, tôi du hành rất nhiều, và còn được may mắn gặp rất nhiều người mới.

Hơn nữa, các cá nhân từ mọi nẻo trên đời đã tìm đến gặp gỡ tôi. Khá nhiều người — đặc biệt là các vị cố gắng vượt các trạm núi đồi cao của Dharamsala, thuộc Ấn độ, nơi tôi sống lưu vong — đến để tìm một điều gì đó. Trong số đó có rất nhiều vị ngập tràn đau khổ: người mất cha mẹ con cái; người có bạn bè hoặc thân nhân tự tử; người ốm đau vì bệnh ung thư hay bệnh AIDS. Tất nhiên là có các đồng hương Tây tạng với các câu chuyện về sự đày đọađau khổ của họ. Không may, nhiều người lại có hy vọng không thực tế, ngỡ rằng tôi có khả năng chữa bệnh hoặc tôi có thể ban bố phép lành nào đó. Nhưng tôi chỉ là một người bình thường. Điều tôi có thể làm là cố gắng giúp đỡ bằng cách chia sẻ nỗi khổ đau của họ.

Về phần tôi, sự gặp gỡ vô số người khác đến từ khắp nơi trên thế giới và khắp nẻo trên đường đời càng nhắc nhở tôi đến căn bản chung như là con người. Thật vậy, càng nhìn vào thế giới, càng rõ rệt hơn là, bất kể trường hợp nào, dù nghèo dù giàu, dù có học thức hay không, thuộc sắc tộc nào, nam nữ, tôn giáo này hoặc tôn giáo khác, chúng ta đều chỉ muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Mỗi mỗi hành động cố ý của chúng ta, trong cảm thức về đời mình — phương cách chọn lựa sống trong khuôn khổ giới hạn của hoàn cảnh — có thể xem như lời giải đáp cho một câu hỏi lớn mà tất cả mọi người đều phải đương đầu: "Làm sao tôi mới được hạnh phúc?"

Chúng ta chịu đựng tồn sinh trong sự truy tầm hạnh phúc đó, tôi thấy dường như chỉ nhờ vào hy vọng. Chúng ta biết, dù không muốn nhìn nhận, không có gì đảm bảo ta sẽ có được một đời sống khả quan hơn, hạnh phúc hơn đời hiện tại. Như một câu ngạn ngữ Tây tạng nói, "Kiếp sau hoặc ngày mai — ta không bao giờ có thể chắc chắn thứ nào sẽ đến trước." Nhưng chúng ta hy vọng sẽ tiếp tục sống. Chúng ta hy vọng qua hành động này hoặc khác, sẽ có thể mang đến hạnh phúc. Mỗi thứ ta làm, không phải chỉ như các cá nhân mà còn ở trình độ xã hội, có thể nhìn thấy qua tương quan cùng nguyện vọng nền tảng này. Thật vậy, đó là một điều duy nhất được tất cả chúng sanh cùng chia sẻ. Sự mong mỏi hay xu hướng đến hạnh phúc và tránh đau khổ không hề có giới hạn. Đó là bản chất của chúng ta. Thế đó, nó cũng chẳng cần được biện minh và đương nhiên có hiệu lực từ một sự kiện đơn thuầnchúng ta mong muốn nó một cách tự nhiênchánh đáng.

Quả thật đó là điều chúng ta nhìn thấy trong các xứ sở cả giàu lẫn nghèo. Ở khắp mọi nơi, bằng những phương tiện có thể tưởng tượng ra, người ta đều nỗ lực để cải thiện đời sống. Điều lạ lùng là, tôi có cảm tưởng những người sống trong các quốc gia phát triển vật chất, với trọn cả nền kỹ nghệ của họ, lại ít thỏa mãn, ít hạnh phúc, và ở trên mức độ nào đó, lại còn đau khổ hơn những kẻ sống trong các quốc gia chậm tiến nhất. Thật vậy, nếu chúng ta so sánh người giàu với người nghèo, thường thấy rằng những người không có gì cả, thật ra lại ít lo lắng hơn, mặc dù họ dễ bị truyền lây bệnh hoạn và đớn đau vật lý. Đối với người giàu, trong khi chỉ có một số ít biết cách sử dụng sự giàu có của họ một cách thông minh — có nghĩa, không phải là sống xa hoa phung phí mà biết chia sẻ cùng người cần thiếu — thì đa số lại không biết. Họ bị vướng mắc trong ý tưởng phải chiếm hữu nhiều hơn nữa, đến độ không còn chỗ chứa thứ gì khác trong cuộc đời. Trong sự cuốn hút đó, họ quả thật đã đánh mất giấc mộng hạnh phúc, mà lẽ ra sự giàu có phải mang đến cho họ. Kết quả, họ thường xuyên bị quay quắt, dày vò giữa sự nghi nan về chuyện gì có thể xảy ra và hy vọng kiếm chác thêm nữa, rồi làm mồi cho bệnh hoạn tinh thầncảm xúc — mặc dù bên ngoài họ có vẻ sống đời hoàn toàn thành côngtiện nghi. Điều thường thấy với một mức độ cao và rất phổ biến trong quần chúng của các xứ phát triển vật chất là các bệnh chứng lo lắng, mất quân bình, ẩn ức, bất định, và căng thẳng. Hơn nữa, đau khổ nội tâm rõ ràngliên hệ cùng sự rối loạn trong việc xây dựng tinh thần đạo đức và nền tảng của nó.

Tôi thường được nhắc nhở về sự nghịch lý đó khi ra nước ngoài. Điều hay xảy ra khi tôi đến một xứ mới, thoạt tiên mọi sự đều có vẻ rất thú vị, đẹp đẽ. Mọi người tôi được gặp đều rất thân thiện. Không có gì để than phiền cả. Nhưng rồi, ngày qua ngày trong khi lắng nghe, tôi chỉ được nghe các khó khăn của người ta, các mối quan ngạiưu phiền của họ. Bên dưới bề mặt, nhiều người cảm thấy khó chịu và không hài lòng cùng đời sống của họ. Họ kinh nghiệm một cảm giác cô đơn; nối tiếp bằng áp lực. Kết quả, bầu không khí bất ổn thật sự là nét chính của thế giới tân tiến.

Mới đầu, điều đó khiến tôi ngạc nhiên. Mặc dù tôi chưa hề thiết tưởng chỉ nội sự giàu có vật chất cũng đủ giúp vượt qua đau khổ, ngay cả trước đây khi từ Tây tạng — một nước luôn luôn nghèo nàn vật chất — nhìn vào thế giới tiến bộ. Thú thật tôi đã từng nghĩ, sự phồn thịnh có thể giúp giảm bớt phần nào khổ đau so với hiện trạng. Tôi hy vọng với sự giảm thiểu của khổ nhọc vật lý, như đa số trong các xứ phát triển kỹ nghệ, hạnh phúc sẽ dễ đạt đến hơn so với những người sống trong điều kiện quá khắc nghiệt. Thay vì vậy, sự tiến bộ phi thường của khoa học và kỹ thuật có vẻ chẳng mang đến gì nhiều hơn các con số kết quả. Trong nhiều trường hợp, tiến bộ hầu như không có nghĩa gì hơn là các con số lớn hơn của nhà cửa to tát ở nhiều thành phố, xe cộ nhiều hơn chen chúc vào giữa. Dĩ nhiên có sự giảm thiểu vài nỗi đau khổ nào đó, đặc biệt là một số bệnh chứng. Nhưng tôi thấy hình như trên không có sự giảm thiểu trên toàn diện.

Nói đến điều này, tôi nhớ lại một trường hợp, nhân một trong các chuyến viếng thăm Tây phương đầu tiên. Tôi là khách của một gia đình rất giàu có, sống trong một biệt thự rộng rãi khang trang. Tất cả mọi người đều duyên dánglịch sự. Các người hầu phục vụ cho từng nhu cầu của họ, và tôi bắt đầu nghĩ, có thể đây là bằng chứng khẳng định cho thấy giàu có là một nguồn hạnh phúc. Các chủ nhân đều có vẻ tự tin thoải mái. Nhưng khi tôi nhìn vào phòng tắm, qua một cánh cửa hé mở, lại thấy một dãy toàn là thuốc an thần và thuốc ngủ, tôi bị bắt buộc phải nhớ đến cái hố thẳm sâu rộng giữa phiến diện bề ngoàithực tế nội tâm.

Sự nghịch lý về đau khổ nội tâm — hoặc gọi là tâm lýcảm xúc — vốn thường được thấy ngay giữa sự giàu có vật chất, đã hiện ra rất rõ nét ở Tây phương. Thật vậy, nó rất thẩm nhập khiến cho chúng ta có thể nghĩ nền văn hóa Tây phương phải chăng có một thứ gì tạo bất ổn cho những người sống trong khổ đau đến thế? Điều đó làm tôi phải nghi nan. Quá nhiều yếu tố dính dấp vào. Hiển nhiên, sự phát triển vật chất có một vai trò đáng kể. Nhưng chúng ta cũng có thể nêu ra vài điều, sự đô thị hóa quá nhanh của xã hội tân tiến, khiến cho một số đông người tập trung sống san sát bên nhau ở một nơi chật chội. Trong khuôn khổ đó, thay vì tùy thuộc giúp đỡ lẫn nhau, ngày nay, nếu có thể, người ta trông cậy máy móc và dịch vụ thay cho người. Nơi mà trước đây nhà nông kêu gọi các thành viên gia đình giúp đỡ canh tác, ngày nay họ chỉ cần gọi điện thoại đến nhà thầu. Chúng ta thấy đời sống tân tiến được tổ chức sao cho sự yêu cầu tùy thuộc trực tiếp với người khác trở thành nhỏ nhất. Tham vọng toàn cầu ít hoặc nhiều của mỗi người, là có một căn nhà riêng, chiếc xe riêng, máy điện toán riêng, và vân vân, hầu có thể càng độc lập càng tốt. Điều đó vốn tự nhiên và có thể hiểu được. Chúng ta cũng có thể nêu ra rằng con người vui hưởng được sự tự lập phát triển đó là do kết quả của tiến bộ vật chất và kỹ thuật. Thật vậy, ngày nay con người có thể độc lập với người khác nhiều hơn bất cứ lúc nào. Nhưng đồng lúc với sự phát triển đó, lại trổi vượt lên một cảm thức rằng tương lai tôi không còn tùy thuộc vào người chung quanh, mà đúng hơn tùy thuộc vào việc làm của tôi, hoặc là, đa phần, tùy thuộc vào chủ nhân của tôi. Điều này lại khiến chúng ta giả thiết, bởi vì người khác không quan trọng cho hạnh phúc của tôi, cho nên hạnh phúc của họ không quan trọng đối với tôi.

Dưới cái nhìn của tôi, chúng ta đã tạo ra một xã hội trong đó con người cảm thấy ngày càng khó đạo đạt đến người khác thiện cảm cơ bản của mình. Thay vì cảm thức cộng đồng và tương quan, là những nét chính tìm thấy trong các xã hội (đa phần nông nghiệp) không giàu có bằng, chúng ta lại tìm thấy một mức độ cao của sự cô đơn và lạc lõng. Mặc dù thật sự nhiều triệu người sống sát cạnh nhau, nhưng đa số, nhất là người già, lại không có ai để trò chuyện ngoài con gia súc. Xã hội kỹ nghệ tân tiến thường khiến tôi bị đả kích, vì sự hiện hữu của nó chẳng khác nào một bộ máy tự động khổng lồ. Thay vì có những người sống thật góp phần trách nhiệm, mỗi cá nhân trong đó chỉ là một mẩu li ti vô nghĩa của bộ máy, không có sự chọn lựa nào khác hơn là phải chuyển động khi bộ máy chuyển động.

Tất cả điều đó còn được phối hợp bằng thứ biện thuyết thời thượng cho sự bành trướng và phát triển kinh tế, vốn dĩ tăng cường cho khuynh hướng cạnh tranhtham vọng của con người. Thêm vào đó lại còn có cả nhu cầu phô trương và bảo tồn ngoại diện — một nguồn chính của các vấn đề, sự căng thẳng và thiếu hạnh phúc. Thế nhưng, nỗi khổ tâm lý và cảm xúc quá thịnh hành tại Tây phương đó, phản ánh lên một khuynh hướng tiềm ẩn của loài người hơn là một sự khiếm khuyết văn hóa. Thật vậy, bên ngoài Tây phương, tôi cũng từng thấy các hình thức tương tự về nỗi khổ nội tâm đó. Ở vài miền tại Đông Nam Á, có thể quan sát thấy khi sự phồn thịnh gia tăng, các hệ thống tín ngưỡng truyền thống lại khởi sự mất ảnh hưởng trên con người. Kết quả chúng ta thấy được là một biểu hiện phổ biến của triệu chứng khó ở phát sinh tại Tây phương. Sự kiện này nói lên rằng, tiềm năng đó hiện hữu nơi tất cả chúng ta; cùng một phương cách của bệnh hoạn vật lý do phản ánh của môi sinh, sự đau khổ tâm lýcảm xúc cũng thế: nó khởi dậy trong khuôn khổ của hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Trong các xứ chậm phát triển ở miền nam, hoặc "Đệ Tam Thế giới," các thứ bệnh hoạn bộc phát rất nhiều, như là bệnh do thiếu điều kiện vệ sinh. Ngược lại, ở đô thị các xã hội kỹ nghệ, lại có các thứ bệnh khác thể hiện theo cách riêng phù hợp theo sinh thái. Tất cả bao hàm rằng, có những lý do vững chắc để giả thiết một mối liên kết giữa sự đề cao bất quân bình về các tiến bộ ngoại diện, cùng sự thiếu hạnh phúc, lo âubất mãn của xã hội tân tiến.

Điều này thoạt nghe có vẻ như một thẩm định quá bi thảm. Nhưng trừ phi chịu thừa nhận tầm mức và đặc tính của các vấn đề khó khăn, chúng ta sẽ không thể nào khởi sự giải quyết chúng.

Hiển nhiên, một lý do chủ yếu cho sự tận hiến cho tiến bộ vật chất của xã hội tân tiến, chính là sự thành công thật sự của khoa học và kỹ thuật. Điều tuyệt thú trong các hình thái cống hiến của con người nói trên, là chúng mang lại thỏa mãn tức thời. Chúng không giống như cầu nguyện, vốn chỉ có các kết quả đa phần là vô hình — nếu cầu nguyện thật sự có hiệu quả. Và chúng ta thường chỉ bị kích động bởi kết quả. Còn điều gì bình thường hơn? Không may, sự tận hiến đó khuyến khích chúng ta giả thiết rằng, chìa khóa của hạnh phúc là một tay nắm được các thứ phúc lợi vật chất, tay kia giữ lấy các sức mạnh của kiến thức. Đối với những ai có tư duy chín chắn thì hiển nhiên là thứ đầu không thể tự nó mang đến hạnh phúc; nhưng khả năng của thứ sau lại càng mơ hồ hơn nữa.

Quả thật sở hữu kiến thức không thể mang lại hạnh phúc, vốn dĩ bắt nguồn từ sự triển khai nội tâm chứ không nhờ vào yếu tố ngoại lai. Thật thế, dù rằng kiến thức rất tinh tường và độc đáo về các hiện tượng bên ngoài là một thành quả lớn lao, nhưng nhu cầu phải tự cắt giảm thu hẹp vào việc theo đuổi nó, thay vì mang đến hạnh phúc, lại có thể gây nguy hiểm. Nó có thể khiến chúng ta bị mất tiếp xúc cùng hiện thực rộng lớn hơn của kinh nghiệm con người, và đặc biệt, sự tùy thuộc vào người khác.

Chúng ta cũng cần phải nhận thức điều gì sẽ xảy ra khi quá trông cậy vào các thành quả ngoại diện của khoa học. Thí dụ, khi ảnh hưởng của tôn giáo giảm dần, sẽ làm dấy lên một nỗi hoang mang trong các vấn đề như, làm sao chúng ta sống thiện lành trong xã hội. Trong quá khứ, tôn giáoluân lý quấn cuộn vào nhau chặt chẽ. Bây giờ, nhiều người, tin tưởng khoa học đã "phủ định" được tôn giáo, đã đưa các giả thiết xa hơn nữa, cho rằng bởi vì không có chứng cớ tối hậu về một quyền năng tâm linh nào cả, nên đạo đức chỉ còn là một vấn đề sở thích cá nhân. Dù trong quá khứ, các khoa học gia và triết gia đều cảm thấy nhu cầu khẩn thiết muốn tìm một nền tảng vững chắc hầu thiết lập các định luật bất biếnchân lý tuyệt đối; ngày nay, loại nghiên cứu như trên bị xem như thừa thãi. Kết quả, chúng ta thấy một sự đảo lộn hoàn toàn, hướng về phía đối cực kia, nơi đó cuối cùng thì không còn gì tồn tại, nơi đó chính thực tế cũng phải bị xét lại. Điều này chỉ có thể dẫn đến một sự hỗn loạn.

Nói lên điều này, tôi không có ý muốn chỉ trích sự cống hiến của khoa học. Tôi đã học hỏi rất nhiều từ sự tiếp xúc với các khoa học gia, và thấy không trở ngại gì trong đối thoại cùng họ cho dù quan điểm của họ là duy vật cơ bản. Thật vậy, như tôi còn có thể nhớ, tôi từng bị lóa mắt trước sự thấu triệt của khoa học. Khi là một đứa bé, có lúc tôi thích thú trong việc học về cơ phận của một máy quay phim cũ tìm thấy trong nhà nghỉ mát của các Đạt lai Lạt ma, còn hơn cả việc học đạo pháp và văn hóa. Đúng hơn, điều tôi quan tâm chính là việc chúng ta có thể quên nhìn vào các giới hạn của khoa học. Khi khoa học thay thế cho tôn giáo như là nguồn kiến thức cuối cùng được quần chúng ưa chuộng, chính khoa học đã bắt đầu hơi giống một loại tôn giáo khác. Với việc này, có một nguy hiểm tương đương phát sinh từ sự kiện đặt niềm tin mù quáng vào các nguyên tắc khoa học, tương ứng cùng sự không chấp nhận các quan điểm thay thế. Tuy nhiên, sự kiện khoa học thay thế cho tôn giáo diễn ra không mấy gì đáng ngạc nhiên, trước những thành quả phi thường của nó. Ai lại không bị kích động trước khả năng đưa con người lên tận mặt trăng? Nhưng sự thật vẫn còn tồn tại là, chẳng hạn như, khi chúng ta đến hỏi một vật lý gia nguyên tử, "Tôi đang gặp một vấn đề tiến thoái lưỡng nan, tôi phải làm gì đây?" chắc hẳn ông hoặc bà ta chỉ biết lắc đầu và đề nghị chúng ta đi nơi khác tìm câu trả lời. Thông thường, một nhà khoa học chẳng có vị trí khá hơn một luật sư trước vấn đề đó. Bởi vì, trong khi khoa học hay luật học có thể giúp chúng ta tiên đoán hậu quả của hành động nào đó, cả hai đều không thể cho biết chúng ta phải hành động thế nào cho hợp ý nghĩa đạo đức. Hơn nữa, chúng ta cần phải nhận biết tầm giới hạn của chính các câu hỏi khoa học. Chẳng hạn như, mặc dù quan tâm đến tâm thức con người khi bước vào thiên niên kỷ, và mặc dù đó là đề tài nghiên cứu suốt trong lịch sử, và nhiều khoa học gia đã nỗ lực tìm hiểu, nhưng họ vẫn chưa biết rõ thật sự nó là gì, tại sao nó hiện hữu, làm sao nó hoạt động, hoặc bản chất cốt yếu của nó như thế nào. Khoa học không thể cho chúng ta biết về uyên nguyên của tâm thức là gì, cũng như hậu quả của nó ra sao. Dĩ nhiên, tâm thức là loại hiện tượng không có hình tướng, thể chất, hoặc màu sắc, không thích hợp để điều nghiên bằng các phương tiện bên ngoài. Nhưng điều đó không có nghĩa một sự vật như thế không hiện hữu, chỉ là khoa học không thể tìm ra nó.

Như thế, chúng ta có nên bỏ rơi các câu hỏi khoa học trên các bình diện đã từng thất bại? Chắc chắn là không. Tôi cũng không hề hàm ý phủ nhận mục tiêu của sự phồn thịnhvô hiệu quả đối với tất cả. Bởi tự bản chất của chúng ta, kinh nghiệm thể xác và vật lý nắm một vai trò chủ yếu trong đời sống. Thành quả của khoa học và kỹ thuật phản ánh rõ rệt tham vọng của loài người muốn đạt đến một cuộc sống khả quan hơn, tiện nghi hơn. Điều đó rất tốt. Ai lại không hoan nghênh nhiều tiến bộ vượt bực của y khoa?

Đồng thời, tôi nghĩ thật sự những phần tử trong các cộng đồng nông nghiệp truyền thống hưởng thụ được một sự hòa điệu và an tĩnh hơn các cư dân phố thị. Thí dụ như, ở miền Spiti phía bắc Ấn độ, vẫn còn giữ tập tục các dân địa phương không khóa cửa nhà khi họ ra ngoài, phòng khi có một người khách nào đến thấy nhà vắng sẽ vào để tự dùng bữa trong khi chờ đợi người nhà quay về. Trước kia Tây tạng cũng có tập tục này. Điều này chẳng có nghĩa là không hề có tội ác xảy ra nơi đó. Như trường hợp của Tây tạng trước khi bị xâm lược, tội ác thỉnh thoảng cũng xảy ra. Những khi đó, người ta thường nhướng mày kinh ngạc. Đó là biến cố hiếm hoi và bất thường. Trái lại, trong vài thành phố tân tiến, ngày nào trôi qua mà không có giết người, đã là một biến cố. Sự bất hòa hợp đã đến theo cùng với sự đô thị hóa.

Tuy vậy, chúng ta cần cẩn thận không nên lý tưởng hóa lối sống xa xưa. Mức độ hợp tác cao tìm thấy nơi các cộng đồng nông nghiệp chậm tiến có thể đặt nền tảng trên nhu cầu nhiều hơn là thiện chí. Người ta nhận thức nó là một cách thay thế cho công tác lao nhọc. Và cảm thức hài lòng đó có thể chẳng có gì khác hơn là do sự dốt nát. Những người đó có thể không hay biết hoặc không thể tưởng tượng có những lối sống khả dĩ khác biệt. Nếu họ biết, chắc là họ sẽ theo hết sức tiếp thu. Thách đố của chúng ta ở đây là tìm ra phương cách nào để có thể vừa hưởng thụ cùng mức độ hòa hợpan tĩnh như người trong các cộng đồng truyền thống, trong khi vẫn hưởng phúc lợi đầy đủ từ các tiến bộ vật chất của thế giới như hiện nay vào buổi bình minh của thiên niên kỷ mới. Nói khác đi tức là ám chỉ các cộng đồng đó không cần phát triển mực sống của họ. Trong khi đó, tôi biết chắc rằng, đa số các người du mục Tây tạng đều rất sung sướng có được các thứ áo quần sưởi ấm loại mới nhất cho mùa đông, dầu không bốc khói để nấu ăn, các thứ thuốc men công hiệu, và một máy truyền hình di động trong lều của họ. Và tôi không bao giờ muốn từ chối họ các thứ đó.

Xã hội tân tiến, với tất cả tiện lợi và khiếm khuyết, đã vươn dậy trong một khuôn khổ của vô lượng nguyên dođiều kiện. Thật là thiển cận nếu giả định rằng, chỉ cần buông bỏ các tiến bộ vật chất đó, chúng ta có thể vượt qua tất cả vấn đề. Đó chính là bỏ quên các nguyên do tiềm ẩn. Ngoài ra, còn có quá nhiều điều trong thế giới tân tiến đáng để lạc quan.

Vô số người trong các quốc gia tiến bộ nhất rất năng động trong việc quan tâm đến người khác. Sát bên cạnh, tôi phải nghĩ đến sự tử tế người tỵ nạn Tây tạng chúng tôi đã nhận được từ những người, vốn có nguồn tài chánh rất eo hẹp. Chẳng hạn như, trẻ em chúng tôi hưởng lợi vô cùng từ sự đóng góp vị tha của các giáo chức Ấn độ, nhiều vị trong số đó phải sống với các điều kiện khó khăn xa nhà. Trên bình diện rộng lớn hơn, chúng ta có thể nói đến tầm phát triển của mối quan tâm đến các nhân quyền căn bản trên toàn cầu; tiêu biểu cho một sự tiến bộ rất tích cực. Phương cách các cộng đồng quốc tế phản ứng trước thiên tai bằng sự trợ giúp cấp thời là một nét tuyệt vời của thế giới hiện đại. Phát triển nhận thức về sự kiện ta không thể tiếp tục hủy hoại môi trường thiên nhiên mà khỏi nhận lãnh các hậu quả tai hại, đó cũng là một nguồn hy vọng. Hơn nữa, tôi tin nhờ vào các phương tiện truyền thông tối tân, loài người sẽ dễ dàng chấp thuận sự đa dạng. Trình độ học thứcgiáo dục trên thế giới nói chung cũng cao hơn lúc nào hết. Các tiến bộ tích cực đó là chỉ dấu cho thấy loài người chúng ta có khả năng ra sao.

Mới đây, tôi có cơ hội diện kiến Hoàng Thái hậu Anh quốc. Bà là một khuôn mặt thân quen cùng tôi trong suốt trọn đời, vì vậy tôi rất vinh hạnh. Nhưng điều đặc biệt khích lệ là được nghe ý kiến của bà, một phụ nữ già gần bằng chính thế kỷ hai mươi này, cho rằng người ta biết quan tâm đến người khác nhiều hơn thời bà còn trẻ. Những ngày đó, bà bảo, người ta chỉ lưu ý đến chính xứ sở của mình, trong khi giờ đây họ quan tâm nhiều hơn đến cư dân các nước khác. Khi tôi hỏi bà có lạc quan về tương lai không, bà xác nhận không chút do dự.

Dĩ nhiên, chúng ta có thể đơn cử rất nhiều xu hướng tiêu cực trong các xã hội tân tiến. Không có gì để nghi ngờ về sự leo thang mỗi năm của các vụ sát nhân, bạo động, hãm hiếp. Thêm vào đó, chúng ta thường xuyên nghe thấy các câu chuyện lạm dụngbóc lột ngay trong gia đình và trong cộng đồng rộng lớn hơn; và con số gia tăng của giới trẻ nghiện ngập thuốc và rượu; cũng như tỷ lệ rất lớn của ly dị đã ảnh hưởng đến trẻ em như thế nào. Ngay cả trong cộng đồng tỵ nạn nhỏ bé của chúng tôi cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của các sự bành trướng đó. Chẳng hạn như, tự tử là điều trước đây hầu như không nghe thấy ở xã hội Tây tạng, gần đây có một hoặc hai thảm kịch loại đó, ngay cả trong cộng đồng lưu vong. Cũng thế, mặc dù nghiện ngập ma túy hầu như không có chỗ trong giới trẻ Tây tạng thuộc một thế hệ trước đây, giờ thì chúng tôi đã có vài trường hợp — hầu hết đều ở các nơi tiếp thụ lối sống đô thị tân tiến.

Tuy nhiên, các vấn đề trên không giống như các nỗi khổ bệnh, lão và tử, vốn có tính cách thiên nhiên không sao tránh được. Chúng cũng không đến từ sự thiếu hiểu biết. Khi chúng ta suy nghĩ tận tường, sẽ thấy rằng tất cả đều là vấn đề luân lý. Mỗi trường hợp đều phản ánh sự hiểu biết của chúng ta về đúng hoặc sai, tích cực hoặc tiêu cực, thích đáng hoặc không thích đáng. Vượt lên trên đó, chúng ta có thể chỉ thẳng vào một điều còn nền tảng hơn nữa: sự bỏ quên điều mà tôi gọi là chiều nội tâm của chúng ta.

Tôi muốn ngụ ý điều gì? Theo sự hiểu biết của tôi, nhấn mạnh quá độ vào sự chiếm hữu vật chất phản ánh một giả thiết tiềm ẩn rằng, tự nó có thể mua được, cung cấp được cho chúng ta tất cả những thỏa mãn đòi hỏi. Tuy nhiên, trên bản chất, thỏa mãnchiếm hữu vật chất cung cấp cho chúng ta chỉ giới hạntrình độ các giác quan. Nếu quả thật loài người chúng ta không khác gì loài thú, điều đó cũng được đi. Tuy nhiên, giống người rất phức tạpđặc biệtsự kiện chúng tatư tưởng và tình cảm cũng như khả năng tưởng tượng và phê phán — cho nên rõ rệt là nhu cầu của chúng ta vượt trên các giác quan. Sự thắng thế của âu lo, áp lực, hỗn độn, hoài nghi, và căng thẳng nơi những người đã thỏa mãn được các nhu cầu cơ bản, đã nói lên rất minh bạch điều đó.

Các vấn đề của chúng ta — như là chiến tranh, tội ácbạo động — và các vấn đề chúng takinh nghiệm nội tâm — các đau khổ tình cảm và tâm lý — không thể giải quyết được trừ phi nói lên sự lãng quên tiềm ẩn đó. Chính vì vậy mà những biến chuyển lớn trong vòng một trăm năm trở lại và hơn nữa — dân chủ, tự do, xã hội chủ nghĩa — tất cả đều thất bại không chuyên chở được các lợi lạc toàn cầu lẽ ra chúng cung ứng, cho dù tư tưởng đẹp đẽ đến đâu. Cần phải có một cuộc cách mạng, chắc chắn là thế. Nhưng không phải cách mạng chính trị, kinh tế, hoặc ngay cả kỹ thuật.

Chúng ta đã có quá đủ kinh nghiệm của các thứ trên trong thế kỷ qua để hiểu biết rằng, một khuynh hướng ngoại diện không thể nào đầy đủ. Điều tôi đề xướng là một "cuộc cách mạng tâm linh."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26266)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21677)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23460)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14758)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12971)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19874)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13832)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22790)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 12001)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12437)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24109)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13746)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21101)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25707)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19264)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23265)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21411)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18344)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14013)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15484)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17901)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21989)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17579)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30993)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28117)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14903)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17182)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22644)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28305)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14043)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17077)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22327)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14189)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21503)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20842)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28583)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15085)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26621)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19308)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31659)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30687)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21034)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26294)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23616)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25654)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25464)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19749)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18509)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17815)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19087)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant