Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 02: Tiểu Sử của Đức Đạt Lai Lạt Ma

19 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 8916)
Chương 02: Tiểu Sử của Đức Đạt Lai Lạt Ma
NẾP SỐNG TỈNH THỨC
CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Tập 1
Thích Nữ Giới Hương


Chương 2

Tiểu Sử của Đức Đạt Lai Lạt Ma


Tenzin Gyatso, nói đủ là Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso, là pháp hiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là vị đạolãnh đạo tinh thần của người dân Tây Tạng và nhiều đạo tràng Phật Giáo trên thế giới. Đức Đạt Lai Lạt Ma là tước hiệu của vua Mông Cổ Altan Khan ban cho Lạt ma Sonam Gyatso vào năm 1578. Từ đó, “Đức Đạt Lai Lạt Ma” trở thành danh xưng cho vị Lạt ma cao nhất trong truyền thống Phật giáo Gelug (Mũ Vàng). Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) nghĩa là "Người bảo vệ đức tin" (Defender of the Faith), "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of Wisdom), "Vua của Chánh Pháp" (King of Dharma), “Viên bảo châu như ý” (Wishfulfilling Gem), “Hoa sen trắng” (White lotus) và Hóa thân Quan Âm (Kuan Yin Boddhisattva).

 Người Tây Tạng tin rằng Lạt Ma là một vị giác ngộ, ngài đã chọn tái sinh nơi cõi đời này để mang lại lợi lạc cho tất cả quần sinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma sinh vào ngày 06 tháng 07 năm 1935 trong một gia đình nông dân nghèo tại một ngôi làng nhỏ vùng Takster thuộc miền Đông Nam, tỉnh Amdo, Tây Tạng. Lhamo Dhondup nghĩa là Hoàn thành ý nguyện của Nữ Thần (Wish-Fulfilling Goddess) là tên thời thơ ấu của ngài. Lúc lên 2 tuổi, ngài được công nhậnhoá thân của Thubten Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và ngài được đưa về thủ đô Lhasa để chính thức làm lễ tấn phong là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

nepsongtinhthucdalailama1-201

Ngôi nhà nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ra đời[1]

GIA ĐÌNH CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Ngôi làng Takster thuộc tỉnh Amdo là nơi gia đình của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cùng khoảng hai mươi mái nhà lá nữa cư ngụ tại đây. Song thân của Đức Đạt Lai Lạt Manông dân, chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt khoai tây, lúa kiều mạch và chăn nuôi cừu. Phụ thân của ngài tên là Choekyong Tsering, phụ mẫu của ngài là Diki Tsering. Ngài có 16 anh em, nhưng chết hết bảy người, chỉ còn hai người chị và bốn người em trai. Tsering Dolma là chị cả lớn hơn Đức Đạt Lai Lạt Ma 18 tuổi. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma mới sanh ra, chị đã giúp mẹ ngài để chăm sóc ngài như một vú nuôi. Trong nhật ký “Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai tôi: Nhật ký của Thân Mẫu” (Dalai Lama, My Son: A Mother’s Story) do Diki Tsering, thân mẫu ngài kể rằng khi Đức Đạt Lai Lạt Ma mới sanh, chị ngài thấy một con mắt của ngài không mở to, chị lấy ngón tay cái của mình kéo mí mắt của ngài lên và may mắn, ngài mở mắt bình thường được và không bị nhiễm khuẩn gì nơi mắt cả.

Người em kế của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Thupten Jigme Norbu, cũng được công nhậnhóa thân của ngài Lama Taktser Rinpoche, Gyalo Thondup và Lobsang Samten. Em nhỏ nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Tenzin Cheogyal cũng là hóa thân của ngài Ngari Rinpoche. Dĩ nhiên, cũng không ai nghĩ ngài là một đứa trẻ đặc biệt hay gia đình lại có hơn một người là hóa thân (tuku/reincarnation) của các Lama. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma sinh ra thì cũng có điềm lànhphụ thân của ngài bỗng qua khỏi cơn bịnh nặng và có hai con quạ đến đậu trên nóc nhà. Chúng đến vào mỗi buổi sáng, đậu ở đó một lúc rồi bay đi. Điều này rất đáng chú ý, vì đã có những hiện tượng tương tự cũng xảy ra trong thời gian mới chào đời của các vị Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, thứ bảy, thứ tám và thứ mười hai. Sau khi các Lạt Ma đó ra đời, có hai con quạ bay đến đậu ở trước nhà như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất được sinh ra trong chuồng bò, nơi mà gia đình họ đang ẩn náu ở đó để tránh khỏi sự tấn công của bọn thổ phỉ. Cả gia đình đều bỏ trốn, để lại hài nhi được giấu sau những tảng đá và quấn trong tấm chăn ấm áp. Sáng hôm sau quay trở lại, họ vô cùng kinh ngạc khi thấy hài nhi được bình yên vô sự và một con quạ thật to đang canh gác cho cậu bé khỏi sự đe dọa của những bầy quạ, kên kên và những con chó hoang dã khác. Về sau, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất lớn lên và tu tập có kết quả, trong lúc thiền quán, ngài tiếp xúc trực tiếp với các vị thần hộ pháp Đại Hắc Thiên (Mahakala). Lúc đó, ngài Đại Hắc Thiên đã nói rằng “Một vị như Lạt Ma đây đang hoằng dương Phật pháp, cần phải có một vị bảo hộ như tôi. Ngay trong ngày ngài ra đời, tôi là vị hộ pháp đã bảo hộ ngài” (somebody like you who is upholding the Buddhist teaching needs a protector like me. Right on the day of your birth, I helped you).

Như vậy chúng ta thấy rõ ràng có sự liên quan giữa thần Mahakala, những con quạ và các vị Ðạt Lai Lạt Ma. Trong trýờng hợp của cậu bé Tsering Dolma cũng thế, lúc đầu không có ai để ý, nhưng mới đây, thân mẫu Diki Tsering đã nhớ lại chuyện bà đã nhìn thấy hai con quạ bay tới đậu trước nhà vào mỗi sáng sớm và một lúc lâu chúng lại bay đi. Một chuyện nữa xảy ra mà thân mẫu Diki Tsering nhớ rất rõ là ngay sau khi cậu bé Tsering Dolma đến Lhasa, cậu liền nói rằng răng của cậu ở trong một chiếc hộp ở trong tòa nhà nào đó ở cung điện mùa hè Norbulingka. Khi họ mở chiếc hộp đó ra, bộ răng của vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đang nằm ở đó. Cậu bé Tsering Dolma đã chỉ vào cái hộp và nói rằng răng của ta đấy (It’s mine).

nepsongtinhthucdalailama1-202Lhamo Dhondup (Đức Đạt Lai Lạt Ma phía cực trái) cùng với gia đình

Thuở nhỏ như những đứa trẻ khác, cậu bé Tsering Dolma cũng vô tư vui đùa cùng chúng bạnthích gia nhập vào nhóm yếu hơn. Ngài cũng thích ngồi gần ổ gà là giả bộ kêu tiếng “cục cục” như con gà. Ngài cũng có sở thích hay xếp đồ vào túi như chuẩn bị sắp đi xa và ngài tuyên bố “Con sẽ đi đến thủ đô Lhasa. Con sẽ đi đến Thủ độ Lhasa và con sẽ đem cả phụ mẫugia đình cùng đi”[2]. Hay đến giờ ăn, ngài cũng thường dành ngồi vào ghế đầu bàn, chỗ của các vị lớn mặc dù mới có 2 tuổi. Đây là những điềm cho thấy sau này ngài sẽ là một vị lãnh đạo lớn.

TÌM THẤY ĐƯỢC ĐỨC ĐẠT LAI LAT MA THỨ XIV

Trong cuốn phim Kundu (1997) do Martin Scorsese sản xuất, chiếu về cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 từ lúc tuổi thơ ấu đến trưởng thành trong hoàn cảnh đặc biệt giữa Tây TạngTrung QuốcĐặc biệt chiếu về cảnh cậu bé Lhamo Dhondup được tăng đoàn và chánh quyền Tây Tạng nhận rahóa thân của Thupten Gyatso, Đức Lat Ma thứ 13. Vị Lạt Ma thứ 13 đã nhập Niết bàn vào năm 1933, hưởng thọ 57 tuổi. Bộ phim rất được tán thưởng và trình chiếu khắp nơi trên thế giới. Năm 1935, vị quan nhiếp chính (Regent) là một trưởng lão Lama, đi đến hồ thiêng Lhamo, phía nam Tây Tạng, cách thủ đô Lhasa khoảng 90 dặm. Đây là hồ thiêng mà người dân Tây Tạng tin rằng nhìn vào có thể đoán được tương lai. Quả vậy, trên mặt nước hồ thiêng yên tĩnh, ngài thấy hiện lên ba mẫu chữ Tây Tạng “Ah, Ka và Ma” và một ngôi chùa ba tầng với mái ngói ngọc bích và có con đường dẫn lên một ngọn đồi có một căn nhà nhỏ có máng xối rất kỳ lạ. Ngài quả quyết rằng chữ “Ah” là tỉnh Amdo, phía đông bắc, vì thế phái đoàn Tây Tạng hướng về Amdo để tìm vị Lạt Ma kế vị. Chữ “Ka” tức ám chỉ ngôi chùa ba tầng ở Kumbum gần nhà của chú bé. Chữ “Ma” là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên và bây giờ Ban thiền Lạt Ma chỉ có hướng lên đỉnh đồi để đi tìm căn nhà. Khi Ban thiền Lạt ma tìm thấy căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ của cha mẹ cậu bé Lhamo Dhondup, phái đoàn nghĩ rằng ngài Đạt Lai Lạt Ma sẽ không ở xa nơi đây vì quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh hiện trên mặt nước hồ thiêng.[3]

Buổi tối hôm đó, tăng đoàn Tây Tạng xin nghỉ lại nhà cậu bé Lhamo Dhondup để quán sát. Kewtsang Rinpoche, tu viện trưởng Tu viện Sera, là trưởng phái đoàn, giả bộ làm thị giả và chơi với cậu bé. Bé Lhamo Dhondup đã nhận ra ngài và gọi “Sera Lama, Sera Lama” (Xin chào Viện trưởng Tu Viện Sera! Xin chào Viện trưởng Tu Viện Sera!). Đây cũng là một bằng chứng cho thấy cậu bé Lhamo Dhondup là hóa thân của vị Lat Ma thứ 13 cho nên dù mới 3 tuổi mà đã biết đến một vị viện trưởng như vậy. Để xác chứng thêm, Lạt ma Kewtsang đưa ra một xâu chuỗi niệm Phật của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và cậu bé Lhamo Dhondup đã nhận ra là của mình. Lạt Ma Kewtsang hỏi tiếp ngài là ai, Lhamo Dhondup liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là "Sera aga'', nghĩa là ''Lạt ma ở tu viện Sera". Tăng đoàn đã để lẫn các vật dụng của ngài Thupten Gyatso giữa những vật dụng của người khác, nhưng cậu bé Lhamo Dhondup chỉ nhặt đúng ngay những đồ dùng thường ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 như hàm răng giả, cây gậy, chiếc lắc linh, cuốn kinh và nhiều pháp cụ khác là của mình. Cậu bé thốt lên: “Của tôi”, “Của tôi” (It’s mine. It’s mine). Tăng đoàn vô cùng mừng rỡ xác nhận chính đây là vị Lạt Ma thứ 14 là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và sẽ tiếp nối truyền thống Đức Đạt Lai Lạt Ma của trường phái Cách lỗ (Gelugpa). Sau đó, cậu bé Lhamo Dhondup được đưa về tu viện Kumbum. Vị Lạt Ma thứ 14 tí hon này lúc đầu cũng rất buồn và nhớ song thân, anh chị em và bạn bè của mình, nhưng cũng may là có sư huynh của ngài là Lobsang Samten đã ở tu viện Kumbum trước đó, giúp đỡ ngài và thầy giáo thọ của ngài là một vị thầy già chuyên dạy học cho các chú sadi hình đồng cũng rất tốt và vui tính. Cuối cùng, vị Lạt Ma thứ 14 cùng với gia đìnhtăng đoàn về đến thủ đô Lhasa. nepsongtinhthucdalailama1-204(Hình bên: Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc 3 tuổi)

Sau đó 18 tháng, Ma Bufeng, vị thủ lãnh của Hồi Giáo địa phương đã từ chối chấp nhận Vị Lạt Ma thứ 14 mà không có đóng tiền lo lót. Cho đến mùa hè 1939, phái đoàn của ngài Lạt Ma thứ 14 gồm ngài Lat Ma, song thân, sư huynh Lobsang Samten, thành viên trong tăng đoàn tìm ra ngài và nhiều chư Tăng Phật tử khác phải du hành khoảng ba tháng mới đến Lhasa. Trên đường đến Lhasa, Vị Lạt Ma thứ 14 được an vị trong chiếc kiệu nhỏ, cậu bé rất thích thú ngắm nhìn phong cảnh hai bên, những đàn bò, đàn lừa trên triền đồi cát Tây Tạng, những chú nai liếng thoáng chạy nhảy trong rừng và vô số những đàn chim bay theo nhiều kiểu hình dáng đặc kỳ ngộ nghĩnh. Còn khoảng hai dặm là đến thủ đô, một nhóm quan chức chánh quyền Tây Tạng đến tiếp đónhộ tống phái đoàn đến Doeguthang. Mùa đông ngày 22 tháng 2 năm 1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma được chính thức tấn phong tước vị là nhà lãnh đạo tôn giáo cho sáu triệu người Tây Tạng và năm 1940, tại cung điện Potala tổ chức buổi lễ trang trọng chính thức công nhận Vị Lạt Ma thứ 14 là vị thầy lãnh đạo tinh thần của toàn nhân dân Tây Tạng.

TU HỌC CẢ NỘI VÀ NGOẠI ĐIỂN

Đức Đạt Lai Lạt bắt đầu sự nghiệp tu học của mình vào lúc 6 tuổi. Ngài được đưa vào các tu viện chuyên đào tạo các vị Lạt Ma tại thủ đô Lhasa. Ngài nhập chúngtu viện Jokhang để thế phát xuất gia, đắp y như một chú điệu và bắt đầu hành sự tu tập với pháp danh là Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso, nói gọn là Tenzin Gyatso. nepsongtinhthucdalailama1-205Hình bên: Đức Đạt Lai Mạt Ma Tenzin Gyatso lúc trưởng thành

Năm 24 tuổi, Ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Tháng 03 năm 1959, lúc ngài được 25 tuổi, kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa, trước mặt khoảng 20.000 học giả, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đậu kỳ thi cuối cùng để được phong chức Geshe (Tiến sĩ Triết học Phật giáo). Các môn học mà ngài phải thông suốt như Luận lý học (Logic), Văn hóa và Nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (Sanskrit), Y học (Medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Triết học này gồm có làm năm phần là Bát nhã (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), Luận A Tỳ Đạt Ma (Abidharma) và Nhân minh luận (Pramana) và các môn học phụ khác là: Biện luận (dialetics), Thơ ca (poetry), Âm nhạc (music), Kịch nghệ (drama), Thiên văn (astrology), Văn phạm (metre and phraseing ), vv… tức là vị tiến sĩ phải học qua các học thuậtgiáo lý của cả nội và ngoại điển.

TÂY TẠNG TẠI DHARAMSALA, ẤN ĐỘ

Sau đó, do hoàn cảnh đất nước không thuận lợi, ngày 17 tháng 03 năm 1959, Ngài sang tỵ nạn tại thành phố cao nguyên Dharamsala, một ngọn đồi phía Bắc Ấn Độ, thuộc bang Himachal Pradesh. Ngài thành lập chánh quyền lưu vong Tây Tạng với hơn 30,000 dân Tây Tạng đang lưu lạc cùng về đây sinh sống lập nghiệp.

Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, y tế, giáo dục, vv… đã dần dần được tái hoạt động tại Ấn Độ. Các trẻ em Tây Tạng được đi học và một Trường đại học Tây Tạng được thành lập tại Ấn Độ. Có hơn 20,000 chư tăng ni và 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng để duy trìbảo vệ truyền thống văn hóatôn giáo Tây Tạng. Từ đó Dharamsala, cao nguyên sương mù thầm lặng đã trở thành một đất nước Tây Tạng thu nhỏ, một “Tiểu Lhasa” nhộn nhịp.

THẾ GIỚI CÔNG NHẬN

Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và dân Tây Tạng ổn định, ngài đã đem hết sức mình để giảng pháp, hoằng dương chánh pháp. Không giống các vị Lạt ma tiền nhiệm của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã đi hơn 62 nước trên sáu lục địa. Ngài đã tiếp kiến được nhiều Tổng thống, Thủ tướng và các nhân vật cao cấp trong nhiều đất nước. Ngài đã trao đổi với các nhà khoa học và các vị lãnh đạo tôn giáo cũng như xã hội ở Tây Úc, Bắc Mỹ, Liên Xô và Á Châu. Trong những chuyến du hành ở các nước ngoài, ngài đã mạnh mẽ vận động sự hiểu biếttôn trọng lẫn nhau giữa các tôn giáo. Ngài đã tham dự vô số những buổi hội nghị liên tôn, chia sẻ thông điệp về bổn phận toàn cầu, tình yêu và lòng từ bi. Vào ngày 5 tháng 10 năm 1989, ngài được trao tặng giải thưởng Nobel hoà bình.

NHỮNG GIẢI THƯỞNG VÀ VĂN BẰNG

Từ năm 1959 đến nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã là tác giả của 72 cuốn sách. Ngài đã nhận được 137 giải thưởng và văn bằng Tiến Sĩ Danh Dự. Danh thơm của ngài như một vị Phật sống, một sứ giả của hòa bình, một bậc thầy tâm linh vĩ đại đã vang xa khắp thế giới. Tuy nhiên, bao giờ ngài cũng bày tỏ sự khiêm cung, thân thiện, giản dị của một vị tăng Phật giáo. Ngài thường nói: “Tôi chỉ là một vị thầy tu” (I am only a simple Buddhist monk).

nepsongtinhthucdalailama1-206

Đức Đạt Lai Mạt Ma lãnh Văn bằng Tiến Sĩ tại trường Đại Học Benaras Hindu, India

NĂM 1957 - 1999

Stt

Thời gian

Văn Bằng Danh Dự

Địa điểm

1

1957

Tiến Sĩ Văn Chương

Trường Đại Học Benaras Hindu, India

2

31/8/1959

Ramon Magaysay

Cộng đồng Ramon Magaysay, Philippines

3

16/9/1959

Admiral Richard E. Byrd Memorial

International Rescue Committee, USA

4

23/1/1963

Huy Chương Lincoln

Research Institute of America, USA

5

1969

Huy Chương Lakett

Norwegian Refugee Council, Norway

6

17/6/1979 

Huy Chương đặc biệt (Special Medal) 

Asian Buddhist Council for Peace, Mongolia

7

17/9/1979 

Tiến Sĩ Thần Học 

Carol College, Waukesh, USA

8

27/9/1979 

Tiến Sĩ Triết Học Phật Giáo

University of Oriental Studies, USA

9

4/10/1979 

Tiến Sĩ Nhân Văn Học (Humanities)

Seattle University, USA 

10

19/10/1979 

Ánh Sáng Tự Do (Liberty Torch) 

Gilbert Di Luchia Friends of Tibet, USA

11

16/1/1984 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Paris, France

12

28/9/1987 

Huy Chương Albert Schweitzer Humanitarian

Human Behavior Foundation, USA 

13

16/6/1988 

Huy Chương Leopold Lucas

University of Tuebingen, W. Germany 

14

21/6/1989 

Huy Chương Nhân Quyền Raoul Wallenberg Congressional Human Rights

Human Rights Foundation, USA 

15

23/9/1989

Huy Chương Recognition of Perseverance of Times of Adversity 

World Management Council, USA

16

4/12/1989

Huy Chương Prix de la Memoire

Foundation Danielle Mitterrand, Paris, France

17

10/12/1989

Giải Nobel Hòa Bình (The Nobel Peace Prize)

Norwegian Nobel Committee, Norway 

18

14/1/1990

Tiến Sĩ Thần Học 

Central Institute for Higher Tibetan Studies, Sarnath, India

19

30/5/1990

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Bologna, Bologna, Italy

20

6/6/1991

Tiến Sĩ Danh Dự

Karnataka University, India

21

8/12/1990

Huy chương Distinguished Peace Leadership Award 91 

Nuclear Age Peace Foundation, USA 

22

25/3/1991

Huy Chương Shiromani Award 1991 

Shiromani Institute, India

23

17/4/1991 

Huy chương Advancing Human Liberty

Freedom House, New York, USA

24

23/8/1991 

Huy Chương Hòa Bình và Thống Nhất (Peace and Unity Award)

National Peace Conference, Delhi, India

25

10/10/1991

Huy Chương Cùng Hợp Nhất (United Earth Prize)

Klaus Nobel United Earth, USA

26

10/10/1991

Huy Chương Chuyển Bánh Xe Pháp (Wheel of Life Award)

Temple of Understanding, New York, USA

27

16/2/1992 

Tiến Sĩ Triết Học 

Lafayette University, Aurora, USA

28

5/5/1992

Tiến Sĩ Luật Học 

University of Melbourne, Australia

29

6/6/1992 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Rio de Janeiro, Brazil

30

11/9/1992

Giáo Sư Danh Dự

Kalmyak State University, Kalmyk

31

17/9/1992 

Giáo Sư Danh Dự

Novosibirsk State University, Buriat

32

26/11/1992

Tiến Sĩ Danh Dự

Jain Vishva Bharati University, Ladnun, India

33

14/3/1993

Huy chương International Valiant for Freedom Award

The Freedom Coalition, Melbourne, Australia

34

20/3/1994

Huy chương Fellow of University

Hebrew University, Jerusalem, Israel

35

21/4/1994

Huy chương The Wallenberg

University of Michigan, Detroit, USA

36

25/4/1994

Tiến Sĩ Văn Khoa

Berea College, Berea, USA

37

26/4/1994

Tiến Sĩ Nghệ Thuật và Nhân Văn

Columbia University, USA 

38

27/4/1994

Huy Chương World Security Annual Peace

New York Lawyer's Alliance, USA

39

4/6/1994

Huy Chương Franklin D. Roosevelt, Freedom

Franklin & Eleanor Roosevelt Institute, USA

40

2/1/1995 

Tiến Sĩ Văn Chương

Nagpur University, India

41

5/4/1995

Tiến Sĩ Triết học

Rissho University, Tokyo, Japan

42

26/7/1996

Huy Chương The President's Medal for Excellence

Indiana University, Bloomington, USA

43

23/3/1997

Tiến Sĩ Danh Dự

Chungshan University, Kaohsiung, Taiwan

44

31/3/1997 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Colorado, Boulder, USA

45

1/6/1997

Tiến Sĩ Danh Dự

Regis university, Denver, USA

46

11/9/1997

Tiến Sĩ Khoa Học Quốc Tế (Doctor of International Diplomatic Science)

University of Trieste, Trieste, Italy

47

25/11/1997

Huy Chương Paulos Mar Gregorious

Paulos Mar Gregorious Committee, India

48

8/5/1998

Huy Chương Juliet Hollister

Juliet Hollister Foundation, New York, USA

49

8/5/1998

Tiến Sĩ về Nhân Văn Học 

Brandeis University, Boston, USA

50

11/5/1998

Tiến Sĩ Thần Học

Emory University, Atlanta, USA 

51

15/5/1998

Tiến Sĩ Luật Học 

University of Wisconsin, Madison, USA

52

11/11/1998

Tiến Sĩ Danh Dự

Seton Hill College, Greensburg, USA 

53

7/4/1999

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Brasilla, Brazil 

54

9/4/1999

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Buenos Aires, Argentina

55

16/4/1999 

Tiến Sĩ Thần học

Florida International University, USA

56

12/10/1999

Huy Chương Bồ Đề (Boddhi Award) 

American Buddhist Congress, USA

57

24/11/1999

Huy Chương Life Time Achievement

Hadassah Women's Zionist, Israel

58

12/12/1999 

Huy Chương Diwaliben Mohanlal Mehta Award for International Peace & Harmony

Diwaliben Mohanlal Mehta Charitable Trust, India

NĂM 2000 – 2011


 

 

Stt

Thời gian

Văn Bằng Danh Dự

Địa điểm

1

19/4/2000

Tiến Sĩ Danh Dự

Saitama Medical School, Saitama, Japan

2

16/10/2000

Tiến Sĩ Danh Dự

Cộng đồng Ramon Magaysay, Slovakia

3

10/6/2001

Huy Chương Ecce homo Order

Kancelaria Kapituly Orderu, Poland

4

26/11/2001

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Lusiada Porto, Portugal

5

5/12/2001

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Tromso, Norway 

6

21/5/2002

Huy Chương Peace Award 2000

UN Association of Australia, Australia

7

6/6/2002

Huy Chương Man of the Year

Croatian Academic Society, Croatia

8

14/10/2002

Huy Chương về Nhân Quyền (Human Rights Prize) 

University of Graz, Autria

9

7/11/2002

Tiến Sĩ Danh Dự

National University of Mongolia, Mongolia

10

7/11/2002

Tiến Sĩ Danh Dự

Mongolian University of Science & Technology, Mongolia

11

5/12/2002

Huy Chương Basavashree

Basavakendra, Sri Murugha Math, Chitradurga, India

12

3/6/2003 

Huy Chương Manfred Bjorkquist

Sigtuna Foundation, Stockholm, Sweden

13

5/9/2003

Tiến Sĩ Danh Dự

University of San Francisco, USA

14

19/9/2003 

Huy Chương về Nhân Quyền (Human Right Award)

International League for Human Rights, New York, USA

15

9/10/2003 

Huy Chương về Promotion of Human Rights

Foundation Jaime Brunet, Madrid, Spain 

16

16/4/2004 

Huy Chương 2nd Citizens Peace Building 

University of California, Irvine, USA

17

19/4/2004

Tiến Sĩ Danh Dự

Univerisity Of British Columbia, Vancouver, Canada

18

20/4/2004 

Tiến Sĩ Danh Dự

Simon Fraser University, Vancouver, Canada

19

27/4/2004 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Toronto, Canada 

20

27/4/2004 

Huy Chương International Acharya Sushil Kumar Peace

University of Toronto, Canada 

21

28/5/2004 

Humphreys Memorial Award for Services to Buddhism 

Buddhist Society of U.K, UK

22

18/9/2004 

Tiến Sĩ Danh Dự

Nova Southeastern University, Miami, USA 

23

23/9/2004 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Miami, USA 

24

24/9/2004 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Puerto Rico, San Juan, Puerto Rico
(U.S.A.) 

25

27/4/2004 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Costa Rica, San Jose, Costa Rica 

26

5/10/2004 

The Gold Medal 

National University of Mexico (UNAM), Mexico City, Mexico

27

7/10/2004 

Tiến Sĩ Danh Dự

Universidad Iberoamericana, Mexico City , Mexico

28

27/7/2005 

Huy Chương Hessian Peace 

Parliament of Hesse, Wiesbaden, Germany 

29

12/8/2005 

Huy Chương Manhae Peace

Manhae Foundation, South Korea 

30

25/9/2005 

Tiến Sĩ Danh Dự

Rutgers University, New Jersy, USA 

31

6/11/2005

Huy Chương Inspiration & Compassion

American Himalayan Foundation, San Francisco, USA

32

16/2/2006

Huy Chương Ben Gurion Negev

Ben Gurion University, Be'er Sheva, Israel

33

4/5/2006

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Santiago, Santiago, Chile

34

9/9/2006 

Huy Chương Công Dân Danh Dự (Honorary Citizenship) 

Canada

35

19/9/2006

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Buffalo, New York, USA 

36

14/10/2006 

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Rome 3, Rome , Italy

37

10/12/2006 

Huy Chương Order of the White Lotus 

Kalmykia 

38

9/5/2007 

Tiến Sĩ Danh Dự

Smith College, Northampton, USA 

39

12/7/2007 

Huy Chương Bild 

Bild Magazine, Germany 

40

8/6/2007 

Tiến Sĩ Danh Dự

Southern Cross University, Melbourne, Australia

41

20/9/2007

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Muenster, Muenster, Germany

42

8/10/2007 

Huy Chương Vô Hại (Ahimsa Award) 

Institute of Jainology, London, UK 

43

17/10/2007 

Huy Chương Quốc Hội Mỹ (U.S. Congressional Gold Medal) 

U.S. Congress, Washington, USA

44

22/10/2007 

Huy Chương Presidential Distinguished Professor 

Emory University, Atlanta, USA 

45

14/4/2008

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Washington, Seattle, USA

46

13/7/2008

Tiến Sĩ Danh Dự

Lehigh University, Bethlehem, USA

47

25/7/2008

Huy Chương Lãnh Đạo Toàn Cầu (Global Leadership)

Aspen Institute, Aspen, USA

48

8/12/2008

Tiến Sĩ Danh Dự

Jagiellonian University, Krakow, Poland

49

9/2/2009

Huy Chương Công dân Danh Dự

City of Rome, Rome, Italy

50

10/2/2009

Huy Chương Công Dân Danh Dự 

City of Venice, Venice, Italy

51

10/2/2009 

Huy Chương German Media

Editors of Germany, Baden Baden, Germany

52

7/6/2009

Huy Chương Công Dân Danh Dự 

City of Paris, Paris, France

53

28/9/2009

Huy Chương University Medal

University of Warsaw, Warsaw, Poland

54

29/7/2009

Huy Chương Công Dân Danh Dự 

City of Warsaw, Warsaw, Poland

55

3/8/2009

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Marburg, Marburg, Germany

56

23/9/2009

Huy Chương International Freedom

National Civil Rights Museum, Memphis, USA

57

27/9/2009

Huy Chương Prize for Love and Forgiveness

Fetzer Institute, Vancouver, USA

58

30/9/2009

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Calgary, Calgary, Canada

59

6/10/2009

Huy Chương The Lantos Human Rights

Lantos Foundation for Human Rights and Justice, Washington, USA

60

19/2/2010

Huy Chương Democracy Service

National Endowment for Democracy, Washington, USA

61

23/2/2010

Baccalaureate Honoris Causa

Broward College, Davie, USA

62

18/3/2010

Nirmala Deshpande Memorial Award for Peace and Global Harmony

Gandhi Ashram Reconstruction Trust, India

63

18/5/2010

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Northern Iowa, Cedar Falls, USA

64

23/5/ 2010

Huy Chương President's Medal

Hunter College, New York, USA

65

18/9/2010

Huy Chương Công Dân Danh Dự

City of Budapest, Budapest, Hungary

66

21/9/ 2010

Huy chương Menschen in Europa

Menschen in Europa, Passau, Germany

67

20/10/2010

Huy Chương International Freedom

National Underground Railroad Freedom Center, Cincinnati, USA

68

21/10/2010

Tiến Sĩ Danh Dự

Miami University, Oxford, USA

69

21/10/2010

Huy Chương Harry T. Wilkes Leadership

Harry T. Wilks Foundation, Oxford, USA

70

18/11/2010

Huy Chương Mother Teresa Memorial International Award

Harmony Foundation, Delhi, India

71

23/11/2010

Tiến Sĩ Danh Dự

Jamia Millia Islamia University, New Delhi, India

72

4/5/2011

Huy chương Shine A Light Award

Amnesty International USA, Los Angeles, USA

73

8/5/2011

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Minnesota, Minneapolis, USA

74

9/5/2011

Tiến Sĩ Danh Dự

Southern Methodist University, Dallas, USA

75

11/5/2011

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Arkansas, Fayetteville, USA

76

13/7/2011

Huy Chương Lifetime Achievement

Caring Institute, Washington, USA

77

18/8/2011

Tiến Sĩ Danh Dự

University of Tartu, Tartu, Estonia

78

5/9/2011

Tiến Sĩ Danh Dự

Indira Gandhi National Open University, New Delhi, India

79

9/10/2011

Huy Chương Mahatma Gandhi International Award for Reconciliation and Peace

The Gandhi Development Trust, Durban, South Africa

 

 

 

 

 nepsongtinhthucdalailama1-203

Cựu Tổng Thống Geogre W. Bush trao Huy Chương Quốc Hội Hoa Kỳ (Congressinal Gold Medal) lên Đức Đạt Lai Mạt Ma vào ngày 17 tháng 10 năm 2007 (bên trái là Bà Nancy Pelosi, Ông Nghị viện Robert Byrd and Tổng thống Mỹ George W. Bush)

 

 

 

Tóm lại, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là một hóa thân Bồ tát, một người đã suốt đời hy sinh thân mạng mình để mang lại an lạchạnh phúc cho con người. Ngài đã xuất hiện như một định mệnh để thừa kế dòng tái sanh huyền bí của trường phái Cách lỗ (Gelugpa) Mũ Vàng. Ngài đã giữ tước vị Đức Đạt Lai Lạt Ma, Nguyên thủ quốc gia Tây Tạng, trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong lịch sử Tây Tạng. Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu vong, tuy nhiên, ngài rất lạc quanhạnh phúc trong sứ mạng đem ánh sáng Phật pháp, đem tự do, công bằnghạnh phúc cho con ngườithế giới. Những cống hiến của ngài chẳng những cho riêng Tây Tạng mà cho cả thế giới và ngày càng có nhiều nơi khắp năm châu bốn biển biết đến ngài. Do đó, chúng ta thấy ngài là một trong những người được kính tặng nhiều huy chương và văn bằng danh dự nhất (137 tấm từ năm 1957 đến năm 2011 và còn tiếp nữa). Văn bằng như là những biểu tượng của những thành quả hoa trái mà ngài đã cống hiến trong việc xây dựng con ngườixã hội. Nhìn vào những thành quả mà ngài đạt được, chúng ta rất kính nễ và vui mừng. Đây là niềm hãnh diện vô cùng cho tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng nói riêng và Phật giáo trên thế giới nói chung.

Vâng! Thật là hạnh phúc thay! Có một Bồ tát Quan Âm hóa sanh tại trái đất này.

* *

 

 

 



[1] http://images.search.yahoo.com/images/view/dharamsala.

[2] http://en.wikipedia.org/wiki/14th_Dalai_Lama.

[3] Dalai Lama, My Son: A Mother’s Story, Diki Tsering, New York: Viking Erkana, 2000, 89.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34372)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16878)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22982)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13060)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22199)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14873)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23594)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24129)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23653)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17153)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19368)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14429)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13851)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14761)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17366)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12687)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13877)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10419)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14716)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17207)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12554)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12724)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10380)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28723)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10713)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11139)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16884)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15786)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13348)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12565)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11375)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19317)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12255)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28632)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10057)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21536)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12801)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17832)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26257)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11715)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10858)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22764)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12052)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10617)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11422)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11542)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant