Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Làm Dịu Tâm

23 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 13704)
01. Làm Dịu Tâm

NGAY TRONG KIẾP SỐNG NÀY
Tác giả: Sayadaw U. Pandita
Dịch giả: Khánh Hỷ

Các Tầng Thiền Minh Sát

oo0oo

Làm Dịu Tâm

Ðức Phật dạy rằng, "Thật vậy, thông qua Thiền Minh Sát, ta có thể phát triển trí tuệ rộng lớn, bao phủ cả quả đất này". Ðặc tính của trí tuệ này là thẩm thấu qua tâm làm cho tâm bành trướng và phát triển rộng rãi. Không hành thiền, tâm sẽ trở nên chật hẹp, khô cứng vì luôn luôn bị phiền não quấy nhiễu. Mỗi một phút giây thiếu chánh niệm, phiền não sẽ len lỏi vào. Mỗi một phút giây chánh niệm thì phiền não không thể xen vào, không thể làm cho tâm cứng ngắc, giao động.

Các pháp trần hay là đối tượng của tâm đi vào sáu cửa, đôi khi là những pháp tốt, đôi khi là những pháp xấu; đôi lúc làm ta vừa lòng, đôi lúc làm ta khó chịu. Khi một hình ảnh đẹp đẽ đập vào mắt ta, nếu ta không chánh niệm thì tham ái và dính mắc sẽ tràn ngập và quấy nhiễu tâm ta. Khi bị căng thẳnggiao động bởi tham ái và dính mắc thì tâm bắt đầu đặt kế hoạch và tính toán tìm phương cách để nắm giữ vật mình ưa thích hay điều mình mong muốn. Từ tâm tính toán đó lời nói và hành động phát sanh.

Nếu tâm không được phòng ngự, bảo vệ bởi chánh niệm, thì khi tiếp xúc với một đối tượng không hài lòng, sân hận sẽ phát sinh. Thế là tâm bị giao động. Sự giao động này biểu lộ ra ngoài khiến người khác có thể thấy một cách rõ ràng. Mặt đương sáng sủa đẹp đẽ bỗng tối sầm lại, nhăn nhó, khó coi; lời nói trở nên cộc cằn, thô lỗ, có thể tiến đến thượng cẳng tay, hạ cẳng chân, và có thể đưa đến việc đả thương, hay gây án mạng.

Sự vật chính nó chẳng đáng yêu mà cũng không đáng ghét tí nào, nhưng vì tâm thiếu chánh niệm nên bị đám mây si mê chế ngự tâm trí khiến ta không thể thấy rõ bộ mặt thật hay bản chất tự nhiên của đối tượng. Thế là vào lúc đó, sự căng thẳng, sự giao động và các phiền não khác sẽ có cơ hội chen vào. Nhiều người cho rằng chúng ta nên ngăn chặn đừng để các cảm xúc vui thích, không vừa lòng hay vô ký đi vào tâm ta. Ðó là một ý tưởng sai lầm, lệch lạc. Ðiều quan trọng là chúng ta phải duy trì chánh niệm và nhìn chúng với cặp mắt bình thản, tự nhiên, không thiên vị.

Nhiều người tự nghĩ rằng có lẽ chúng ta phải bịt mắt, bưng tai trong khi hành thiền. Nhưng làm sao có thể bịt mũingăn cản lưỡi cảm nhận vị? Và làm thế nào có thể khiến thân không cảm nhận sự nóng lạnh, đau nhức, v.v... Chánh niệm không có nghĩa là bịt mắt, bưng tai, nín thở. Trong khi ngồi thiền, chúng ta cố gắng tập trung tâm ý vào đề mục chính, nhưng âm thanh và những cảm giác mạnh mẽ dấy lên trong thân thể ta, ta vẫn biết được. Dầu có tinh tấn đến đâu, nhiều lúc tâm cũng trượt khỏi đề mục và tâm phóng đi nơi khác. Ðiều quan trọng là chúng ta ghi nhận những gì xảy ra khi chúng mạnh mẽ hơn đề mục chính, rồi đưa tâm trở về đề mục chính. Nếu các đối tượng khác không mạnh hơn đề mục chính thì ta chẳng cần để ý đến chúng làm gì.

Năng Lực Của Sự Thu Thúc

Thực hành thu thúc là một phương thức có hiệu quả trong việc ngăn chận phiền não. Thu thúc không có nghĩa là trở thành điếc hay tê liệt, mà là canh chừng, phòng ngự các giác quan đừng để tâm chạy khỏi các cửa đó mà thiếu chánh niệm. Chánh niệm đóng vai trò chủ động trong việc thu thúc. Khi tâm đi ra các cửa đó mà không chánh niệm thì nó sẽ tính toán kế hoạch. Khi giữ tâm chánh niệm trong từng sát na một thì tâm không bị lôi cuốn vào tham lam, sân hậnsi mê. Nếu chúng ta tích cực nỗ lực tinh tấn thì tâm chúng ta sẽ được huấn luyện thuần thụchoàn toàn thoát khỏi sự phục kích của phiền não.

Chúng ta phải kịp thời ghi nhận ngay tức khắc khi tiếp xúc với đối tượng, cố gắng chánh niệm thế nào để khi nghe chỉ thuần là nghe, khi thấy chỉ thuần là thấy, khi nếm chỉ thuần là nếm, khi đụng chỉ thuần là đụng, khi suy nghĩ chỉ thuần là suy nghĩ. Mỗi tiến trình phải được ghi nhận một cách rõ ràng, đơn giản, đừng để sự suy nghĩ xen vào, cũng đừng để phiền não làm cho tâm ngưng đọng, đóng cục hay xơ cứng. Nếu hoàn toàn chánh niệm, chúng ta sẽ nhận thấy đối tượng sinh rồi diệt mà không thông qua sự suy nghĩ hay phản ứng. Dầu cho đối tượng nào xuất hiện đi nữa, chúng ta cũng phải can đảm đối đầu với nó. Nếu làm được như thế, ta sẽ không bị yêu và ghét chi phối.

Vào thời Ðức Phật có một vị vua rất thắc mắc về giới luật của các vị sư trẻ tuổi. Không biết làm thế nào những nhà sư trẻ có thể giữ giới luật được, nhất là các vị sư đang ở vào lứa tuổi thanh xuân. Làm thế nào họ có thể duy trì sự thanh khiết khi ái dục phát sinh. Nhà vua bèn hỏi một vị sư lớn tuổi về vấn đề này. Vị trưởng lão trả lời: "Khi những vị sư trẻ gặp phụ nữ trẻ hơn mình thì xem họ như em gái mình; khi gặp phụ nữ bằng tuổi hay lớn hơn một chút thì xem họ như chị của mình; khi gặp phụ nữ lớn hơn mình thì xem họ như mẹ mình; nếu gặp phụ nữ lớn tuổi hơn nữa thì xem họ như bà nội, bà ngoại của mình".

Không bằng lòng với câu trả lời này, nhà vua nói: "Nhưng tốc độ của tâm rất nhanh. Ngay cả khi ta chưa kịp suy nghĩ thì ái dục đã phát sanh rồi".

Vị trưởng lão cố gắng giải thích thêm: "Nếu vị sư gặp một phụ nữ mà quên chánh niệm, bắt đầu ngắm nghía gương mặt và vóc dáng cô ta, thì tự nhiên ái dục phát sanh. Nhưng nếu nhà sư nhìn người phụ nữ như nhìn ba mươi hai thể trược: tóc, lông, móng, răng, da, ruột, gan, xương, tủy, v.v... và quán tưởng đến sự ghê tởm của các thể trược này, thì ái dục không có cơ hội chi phối. Khi tâm đầy sự ghê tởm nhàm chán đối với hình sắc người phụ nữ, thì ái dục không thể phát khởi được". Ðây là đề mục niệm thân mà Ðức Phật chỉ dạy.

Vẫn chưa thỏa mãn với sự trả lời của vị trưởng lão, nhà vua hỏi tiếp: "Gặp trường hợp nhà sư giàu tưởng tượng hơn sự định tâm thì sao?"

Tôi muốn mở một dấu ngoặc ở đây về vấn đề tưởng tượng. Một thiền viện nọ, giữa thiền đường có chưng bày một chiếc tủ kiếng, trong đó treo một bộ xương để mọi người có thể nhìn thấy mà quán tưởng đến sự thúc bách của cái chết. Nhìn vào bộ xương, người ta có thể nhìn thấy được sự giả tạm của cuộc sống. Dưới chân bộ xương có để một tấm bảng nhỏ ghi chữ: "Cô gái mười sáu tuổi".

Người có hành thiền và có sự chú tâm sáng suốt, khi nhìn bộ xương có thể tự nhủ: "Chà, cô bé thật đáng thương. Còn quá trẻ mà đã chết. Ta cũng vậy. Cũng sẽ chết". Lúc bấy giờ một tư tưởng khẩn cấp trước cái chết nảy sinh, và người xem sẽ cố gắng làm những việc phước thiện như bố thí, trì giới, tham thiền với một sự tinh tấn nhiệt thành. Một người khác khi nhìn bộ xương có thể phát sanh sự ghê tởm, nhàm chán và thấy rằng thân thể này chẳng có gì cả. Nó chỉ là bộ xương được nhồi nhét và đắp lên gan, tim, phèo, phổi, thịt, da đầy ô trược; hay chẳng qua chỉ là một cái túi da, bên trong chứa đựng xương, thịt, máu, phẩn, nước tiểu, v.v...

Một hôm có một chàng thanh niên nhiều tưởng tượng đến thiền đường. Sau khi quán sát bộ xương, ngắm đi ngắm lại, ngắm tới ngắm lui, chàng thanh niên để ý đến tấm bảng dưới chân bộ xương rồi tự nhủ: "Thật đáng thương! Chắc là trước khi chết cô bé này đẹp lắm". Chàng ta bắt đầu thêm da thịt vào cái sọ khô, và bỗng nhiên trước mắt chàng là một khuôn mặt kiều diễm, tóc dài óng mượt, làn da mịn màng, cổ cao ba ngấn, vóc dáng thon thả. Thế rồi chàng ta đứng ngẩn ngơ trước bộ xương. Chàng thanh niên đã bị tham ái bao phủ do những hình ảnh mà anh ta vừa tạo nên. Hình ảnh này chẳng khác nào một con thú nhồi bông hay bộ sườn tre của những người làm đồ mã được dùng giấy bổi để đắp lên.

Trở lại câu chuyện của nhà vua ở trên. Vị trưởng lão trả lời: "Tất cả những vị sư trẻ đều phải hành Thiền Minh Sát, giữ tâm chánh niệm, thu thúc lục căn, không để cho tâm phóng túng vọng động, không bị chi phối bởi những gì nhìn thấy".

Nhà vua cảm thấy hài lòng với câu trả lời và nói: "Vâng, như vậy mới đúng. Tôi có thể minh chứng điều này qua kinh nghiệm của chính tôi, vì mỗi khi tôi đi ngang qua tam cung lục viện mà không chánh niệm thì tôi gặp nhiều rắc rối, nhưng nếu tôi chánh niệm thì không có vấn đề gì cả".

Hy vọng rằng câu chuyện trên sẽ giúp cho các bạn cố gắng thu thúc lục căn để khỏi bị phiền não quấy nhiễu.

Sự Thu Thúc Trong Khóa Thiền Tích Cực

Trong một khóa thiền tích cực, ta phải giữ hạnh thu thúc. Nhiều người nghĩ rằng thu thúc quá nhiều, nhưng thật ra thì thu thúc biết bao nhiêu cho vừa! Thu thúc chẳng bao giờ đủ cả.

Trong khi hành thiền tích cực, chúng ta phải giữ ít nhất bốn sự thu thúc đã được ghi trong kinh điển.

Thứ nhứt, thiền sinh có mắt phải làm như mù. Trong khi đi, mắt phải nhìn xuống đất, không tò mò nhìn đây nhìn đó khiến tâm trí bị phân tán.

Thứ hai, thiền sinh có tai phải làm như điếc. Khi nghe một tiếng động, không nên để ý đó là tiếng động gì. Không phán đoán, đánh giá, phân tích, phân biệt âm thanh. Phải bỏ qua làm như không biết gì đến tiếng động và không để ý đến tiếng động.

Thứ ba, thiền sinh thông minh phải làm như ngu dốt. Mặc dầu được học hỏi hiểu biết nhiều, đọc rất nhiều các sách thiền và đã từng thực hành qua nhiều phương pháp, nhưng trong khi hành thiền, thiền sinh phải gác qua một bên mọi kiến thức của mình. Bao nhiêu kiến thức hãy bỏ vào rương, khóa lại, nhét dưới gầm giường, hãy làm như người không biết gì và không nói gì về những điều mà mình đã biết.

Thứ tư, là thiền sinh khỏe mạnh làm như ốm đau. Ði đứng chậm chạp, chánh niệm.

Cần phải thêm một sự thu thúc thứ năm nữa, đó là còn sống mà làm như chết rồi. Có cảm giác mà làm như khôngcảm giác, không biết gì. Ðó là muốn đề cập đến các cảm giác đau nhức. Như chúng ta biết, xác chết dầu có bị băm vằm ra từng mảnh nhỏ thì cũng chẳng có cảm giác gì. Nếu trong khi hành thiền mà sự đau nhức phát sinh, thiền sinh phải thu hết can đảmnghị lực để nhìn thẳng vào sự đau nhức. Thiền sinh phải có dũng cảm tinh tấn để xuyên thấuhiểu biết sự đau mà không thay đổi tư thế, cũng không bực tức sự đau nhức này.

Mỗi một phút giây, chúng ta phải cố gắng tinh tấn chánh niệm với những gì đang xảy ra trong hiện tại. Chúng ta cố gắng ghi nhận: thấy, thấy, thấy mỗi khi thấy; ghi nhận nghe, nghe, nghe mỗi khi nghe. Phải tinh tấn để ghi nhận. Cần phải có một cái tâm chính xác hướng về đề mục để tâm có thể tiếp xúc với đề mục quán sát .

Chánh niệm cũng phải có mặt, xuyên thấu sâu xa vào trong đối tượng, và với chánh niệm sẽ đưa đến chánh định giúp cho tâm tập trung không bị tán loạn hay vọng động.

Trí Tuệ Giúp Cho Tâm Mềm Dẻo

Chánh tinh tấn, chánh hướng tâm (hay chánh tư duy), chánh niệm, chánh định là những yếu tố của bát chánh đạo. Khi các yếu tố này hiện diện trong tâm thì phiền não không có cơ hội phát sinh. Phiền não làm cho tâm trơ cứng, trì độn. Khi các yếu tố kia hiện diện thì nó biến tâm trở nên mềm dẻo, linh động. Nếu tiếp tục ghi nhận chánh niệm thì tâm sẽ dần dần xuyên thấu vào trong bản chất của mọi vật. Thiền sinh sẽ thấy rõ mọi vật đều tạo bởi danh và sắc, và tâm sẽ cảm thấy sự an lạc lớn lao. Không có ai ở đó cả mà chỉ có danh và sắc. Không có ai tạo ra danh và sắc. Nếu tiếp theo, ta thấy được sự liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng danh và sắc này thì tâm sẽ không còn hoài nghi nữa. Một thiền sinh đầy nghi ngờ thì khó có thể chữa trị được sự cứng ngắc và sự căng thẳng này. Dầu cho thiền sưcố gắng bao nhiêu đi nữa, thì sự tinh tấn của thiền sinh cũng khó tăng lên được.

Nếu thiền sinh kiên trì hành thiền để đạt được ít nhất tuệ thấy rõ nhân quả thì sẽ không còn vấn đề khó khăn, mắc mứu gì nữa. Tuệ giác này sẽ làm cho sự nghi ngờ tan biến và giúp cho tâm trở nên mềm dẻo. Thiền sinh không còn tin vào thượng đế hay một đấng sáng tạo, đấng toàn năng nào đã tạo nên thân và tâm này. Lúc bấy giờ, nghi ngờ sẽ biến mất. Nếu chúng ta tiếp tục chánh niệm sâu xa hơn và sống trong từng phút giây hiện tại, bấy giờ tâm sẽ mềm dẻo, tinh tế, thoải mái, thư thái hơn bởi vì những sự căng thẳng của phiền não đã được nới lỏng.

Khi quán sát bản chất thật sự của thân và tâm, thiền sinh sẽ đạt được tuệ giác thấy rõ vô thường. Khi thấy rõ vô thường thiền sinh sẽ không còn kiêu mạn như trước nữa. Nếu thiền sinh thấy rõ ràng áp lực lớn lao do các hiện tượng danh sắc gây ra, thiền sinh sẽ có trí tuệ xuyên thấu được bản chất của sự khổ và nhờ thế thoát khỏi tham ái.

Nếu thiền sinh thấy được sự vắng bóng của các hiện tượng tự ngã, biết rõ ràng tiến trình của thân tâmhoàn toàn trống rỗng và chẳng liên quan gì đến ước muốn của chúng ta thì bấy giờ thiền sinh sẽ không còn tà kiến về một tự ngã hay cái tôi vĩnh viễn nữa. Ðó chỉ mới là giai đoạn khởi đầu. Càng xuyên thấu sâu xa hơn vào bản chất thực sự của sự vật thì tâm càng trở nên mềm dẻo, linh hoạt, dễ uốn nắn, dễ điều khiển hơn. Khi thiền sinh đạt được đạo quả tâm đầu tiên thấy rõ Niết Bàn lần thứ nhất thì một số phiền não sẽ không bao giờ xuất hiện làm cho tâm thô cứng, ngưng đọng nữa.

Hy vọng các bạn tiếp tụctích cực chánh niệm để có thể phát triển trí tuệ rộng lớn và thâm sâu này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26723)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 20041)
Thực hành Phật giáo là tiến hành một cuộc chiến đấu giữa những thế lực tiêu cựctích cực trong tâm bạn. Thiền giả nỗ lực làm tiêu mòn điều tiêu cực...
(Xem: 18230)
Ðức Phật khuyên chúng ta nên thường xuyên suy ngẫm về cái chết, hàng ngày hay vào bất cứ lúc nào. Nó sẽ khơi dậy trong chúng ta sự tỉnh thứcý thức cấp bách...
(Xem: 32936)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 18838)
Theo hiểu biết cơ bản của Phật giáo, tâm hồn về bản chất luôn mang tính sáng suốtthông tuệ. Thế nên, những rắc rối về tình cảm không hề tồn tại trong bản chất cơ bản của tâm hồn...
(Xem: 31756)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32644)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 20195)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 26437)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 20415)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 23842)
Tôi tự cho rằng tôi có thực hay đó chỉ là một ý nghĩ về tôi do tôi tưởng nghĩ về tôi hoặc một ý nghĩ hay một hình ảnh về tôi do kẻ khác hay những kẻ khác tưởng nghĩ về tôi?
(Xem: 24021)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 15182)
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch)...
(Xem: 15075)
Nhìn thấy rõ tướng vô thường và khổ đau đang bủa xuống quanh cuộc sống, đêm rằm tháng hai âm lịch, Thái tử lên ngựa Kiền-trắc (Kanthaka) cùng với người hầu cận...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant