Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Đức Bồ Tát Thái Tử Siddhattha đản sanh kiếp chót

03 Tháng Tám 201200:00(Xem: 12129)
01. Đức Bồ Tát Thái Tử Siddhattha đản sanh kiếp chót
Ý NGHĨA ĐÊM RẰM THÁNG TƯ
Soạn giả: Hộ Pháp


ĐỨC BỒ TÁT THÁI TỬ SIDDHATTHA

ĐẢN SINH KIẾP CHÓT

Đức Bồ Tát Thái tử đản sinh kiếp này là kiếp chót.

Vậy kiếp bắt đầu của Ngài từ thuở nào?

Thật ra, từ vô thủy trước khi Đức Bồ Tát phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì không rõ kiếp bắt đầu của Ngài. Khi Đức Bồ Tát phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt hơn đức tintinh tấn, Ngài đã trải qua vô số kiếp tử sinh luân hồi để hoàn thành 30 pháp hạnh ba-la-mật hầu mong chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trong suốt khoảng thời gian bằng một nửa thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt.

10 pháp hạnh ba-la-mật là:

1- Bố thí ba-la-mật (dānapāramī)

2-  Giữ giới ba-la-mật (sīlapāramī)

3-  Xuất gia ba-la-mật (nekkhammapāramī)

4-  Trí tuệ ba-la-mật (paññāpāramī)

5-  Tinh tấn ba-la-mật (vīriyapāramī)

6-  Nhẫn nại ba-la-mật (khantipāramī)

7-  Chân thật ba-la-mật (saccapāramī)

8-  Chí nguyện ba-la-mật (adhiṭṭhānapāramī)

9-  Tâm từ ba-la-mật (mettāpāramī)

10-  Tâm xả ba-la-mật (upekkhāpāramī)

30 pháp hạnh ba-la-mật chia làm 3 bậc:

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thường nào chỉ có hy sinh của cải tài sản, ngôi báu, thậm chí đến vợ con,… để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc thường ấy mà thôi; nhưng không liên quan đến những bộ phận trong thân thể và sinh mạng của Ngài.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc trung nào không những hy sinh của cải bên ngoài mình, mà còn phải hy sinh những bộ phận trong thân thể như mắt, v.v… để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc trung ấy; nhưng không liên quan đến sự hy sinh sinh mạng của Ngài.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng nào không những hy sinh những của cải bên ngoài và các bộ phận trong thân thể, mà còn phải hy sinh sinh mạng của Ngài để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy.

Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có 3 hạng

1-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt (paññādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 7 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trí tuệ ưu việt.

2-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt (saddhādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 14 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 18 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác đức tin ưu việt.

3-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt (vīriyādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, và gấp 4 lần thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 28 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 36 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 16 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tinh tấn ưu việt.

Đức Phật Gotama là Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt. Tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ như sau:

1-  Nanda asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

2-  Sunanda asaṅkheyya: Có 9.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  Pathavī asaṅkheyya: Có 10.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  Maṇḍa asaṅkheyya: Có 11.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

5-  Dharaṇīasaṅkheyya: Có 20.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

6-  Sāgara asaṅkheyya: Có 30.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

7-  Puṇḍarika asaṅkheyya: Có 40.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Tổng cộng trong 7 a-tăng-kỳ có 125.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Khi các pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát đã có đủ năng lực để tiến triển đến thời kỳ giữa.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói cho chúng sinh biết ý nguyện của Ngài muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 9 a-tăng-kỳ như sau:

1-  Sabbabhadda asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

2-  Sabbalulla asaṅkheyya: Có 60.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  Sabbaratanā asaṅkheyya: Có 70.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  Usabhakkhandha asaṅkheyya: Có 80.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

5-  Mānibhadda asaṅkheyya: Có 90.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

6-  Paduma asaṅkheyya: Có 20.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

7-  Usabha asaṅkheyya: Có 10.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

8-  Khandhuttama asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

9-  Sabbapāla asaṅkheyya: Có 2.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Tổng cộng trong 9 a-tăng-kỳ có 342.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

* Những tên a-tăng-kỳ (asaṅkheyya) và số lượng Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian được ghi chép trong những bộ Sotattakī, bộ Tathā-gatuppatti, Chiengmai paṇṇāsa, bộ Jinakālamāli mà trong 6 kỳ kết tập Tam TạngChú giải, Phụ chú giải không ghi lại rõ.

Tuy đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật trải qua hai thời kỳ trên, nhưng vì Đức Bồ Tát chưa được một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức Bồ Tát vẫn có thể thoái chí, từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác chỉ muốn trở thành Đức Phật Độc Giác hoặc Bậc Thánh Thanh Văn Giác.

Nếu Đức Bồ Tátquyết tâm không lay chuyển, có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, và tiếp tục tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, thì sẽ tiến triển đến thời kỳ cuối.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại, chắc chắn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đạo sĩ Sumedha đã chứng đắc 8 bậc thiền: 4 bậc thiền hữu sắc 4 bậc thiền vô sắc; chứng đắc ngũ thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông (thuộc trong tam giới). Một hôm, Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn thấy dân chúng xứ Rammavatī đang vui mừng hoan hỷ sửa sang đường sá. Muốn biết do nguyên nhân nào khiến người ta làm việc một cách hoan hỷ như vậy, Đạo sĩ liền đáp xuống và hỏi rằng:

Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này để cho ai đi, mà thấy bà con vui mừng hoan hỷ thế?

Kính thưa Ngài Đạo sĩ Sumedha, Đức Phật Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh đã xuất hiện trên thế gian. Chúng tôi đang sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp ngự qua đây.

Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh từ “Buddha” (Đức Phật), tâm vô cùng hoan hỷ, suy nghĩ: “Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều hiếm có, thật vô cùng hy hữu. Ta nên cố gắng gieo phước thiện, tạo duyên lành nơi Đức Phật”.

Đức Bồ Tát Đạo sĩ liền thưa với bà con rằng:

– Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn vị Thánh A-ra-hán ngự đến; xin bà con nhường cho bần đạo một đoạn đường, để bần đạo cùng sửa sang, đón rước Đức Phật cùng chư Thánh A-ra-hán.

Dân chúng biết Đạo sĩ có nhiều oai lực thần thông, nên họ chỉ cho Đạo sĩ đoạn đường bùn lầy khó khăn nhất. Đạo sĩ nghĩ rằng:

“Nếu ta dùng phép thần thông để sửa đoạn đường này thì quá dễ, phước thiện sẽ không nhiều được. Vậy, ta nên tự dùng sức mình để sửa sang, chắc chắn sẽ có nhiều phước thiện vô lượng”.

Đức Bồ Tát dùng sức lực của chính mình, lấy đất từ nơi khác đến để san lấp mặt bằng, công việc sửa đoạn đường còn độ một sải tay nữa là hoàn thành.

Khi ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp đến. Đức Bồ Tát Sumedha quyết định rằng: “Hôm nay ta xin cúng dường sinh mạng của ta đến Đức Phật Dīpaṅkara, bằng cách nằm sấp trên đoạn đường còn lại. Nguyện lấy tấm thân này làm một chiếc cầu, để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán ngự đi qua. Chắc chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài”.

Đức Bồ Tát Sumedha suy tư rằng:

Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì chắc chắn ta sẽ trở thành một bậc Thánh A-ra-hán trong giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng sinh khác vẫn đang chìm đắm trong biển khổ tử sinh luân hồi. Ta không đành giải thoát khổ riêng một mình ta”.

Nghĩ vậy, với tâm đại bi vô lượng thương xót chúng sinh, nên Đức Bồ Tát Sumedha phát nguyện rằng:

“Buddho bodheyyaṃ...” Khi ta tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác rồi; khi ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán y theo ta vậy (tự giác - giác tha).

“Mutto moceyyaṃ...” Khi ta tự mình giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn rồi; khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn y theo ta vậy (tự độ - độ tha).

“Tinno tareyyaṃ...” Khi ta tự mình vượt qua được biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc rồi; khi ấy, ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc y theo ta vậy (tự đáo - đáo tha).

Trong khi đó có một nữ Bà-la-môn tên là Sumittā(1) trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara, nhìn thấy Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, lấy thân mình làm chiếc cầu trên đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức tin trong sạch, kính dâng đến vị Đạo sĩ 5 đóa hoa sen, còn lại 3 đóa hoa sen, cô để cúng dường đến Đức Phật. Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên trán cúng dường đến Đức Phật. Khi ấy, Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư vị Thánh A-ra-hán ngự đi ngang qua bằng phép thần thông một cách nhẹ nhàng trên tấm thân của Đạo sĩ Sumedha; cho nên, sinh mạng của Đức Bồ Tát vẫn an toàn, chẳng hề hấn gì.

Thường Đức Phật Chánh Đẳng Giác chỉ thọ ký lần đầu tiên cho Đức Bồ Tát nào có đầy đủ 8 điều kiện như sau:

1- loài người thật (không phải Long vương hoặc chư thiên hóa thành người).

2-  Là người nam thật (không phải là ái nam, ái nữ).

3-  Kiếp hiện tại có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật, có thể chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

4-  Trực tiếp đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

5-  Là bậc xuất gia Đạo sĩchánh kiến về nghiệp.

6-  Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc, chứng đắc ngũ thông tam giới.

7-  Quyết định cúng dường sinh mạng đến Đức Phật.

8- ý nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng, quyết tâm trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha quán xét ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của Đạo sĩ Sumedha có thành tựu hay không. Với trí tuệ thấy rõ, biết rõ trong kiếp vị lai (anāgataṃsañāṇa), vị Bồ Tát Đạo sĩ này chắc chắn sẽ thành tựu như ý nguyện, nên Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệuĐức Phật Gotama”.

Đức Phật Dīpaṅkara là Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký cho Đức Bồ Tát Sumedha, tiền kiếp của Đức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát Sumedha đương nhiên trở thành Đức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta) chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong thời vị lai. Khi lắng nghe lời thọ ký của Đức Phật Dīpaṅkara, Đức Bồ Tát phát sinh tâm thiện vô cùng hoan hỷ. Tất cả nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên đồng hoan hỷ chắp tay lễ bái Đức Bồ Tát Đạo sĩ, tán dương ca tụng rằng:

Đạo sĩ Sumedha chắc chắn sẽ là mầm mống trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai”.

Từ đó, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama tinh tấn không ngừng bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật trong thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.

4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất(2)

4 a-tăng-kỳ(3)

1-  A-tăng-kỳ thứ nhất: Kể từ Đức Phật Dīpaṅkara đến Đức Phật Koṇḍañña, thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ nhất gọi là Sela asaṅkheyya, chỉ có một Đức Phật Koṇḍañña xuất hiện trên thế gian.

2-  A-tăng-kỳ thứ nhì: Kể từ Đức Phật Koṇḍañña đến Đức Phật Maṅgala, thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ nhì gọi là Bhāsa asaṅkheyya, có 4 Đức Phật là: Đức Phật Maṅgala, Đức Phật Sumana, Đức Phật Revata và Đức Phật Sobhita tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  A-tăng-kỳ thứ ba: Kể từ Đức Phật Maṅgala đến Đức Phật Anomadassī thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ ba gọi là Jaya asaṅkheyya, có 3 Đức Phật là: Đức Phật Anomadassī, Đức Phật Paduma và Đức Phật Nārada tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  A-tăng-kỳ thứ tư: Kể từ Đức Phật Anomadassī đến Đức Phật Padumutara thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ tư gọi là Ruci asaṅkheyya, chỉ có một Đức Phật Padumutara xuất hiện trên thế gian.

100 ngàn đại kiếp trái đất

Trong khoảng thời gian lâu 100 ngàn đại kiếp trái đất, có 14 Đức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gianĐức Phật Sumedha, Đức Phật Sujāta, Đức Phật Piyadassī, Đức Phật Atthadassī, Đức Phật Dhammadassī, Đức Phật Siddhattha, Đức Phật Tissa, Đức Phật Phussa, Đức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī, Đức Phật Vessabhū, Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa.

Mỗi khi Đức Phật nào xuất hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đều đến hầu Đức Phật ấy và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệuĐức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đến kiếp áp chót hóa sinh làm thiên nam tên là Setaketu trong cõi trời Tusita; cõi trời thứ tư trong 6 cõi trời dục giới.

Thỉnh Đức Bồ Tát Giáng Thế

Bốn Đức vua trời cõi Tứ Đại Thiên Vương, Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập Tam Thiên, Đức vua trời Suyāma cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua trời Santussita cõi Đấu Xuất Đà Thiên, Đức vua trời Sunimmita cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua trời Vasavatti cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cùng chư thiên 6 cõi trời dục giới, chư phạm thiên các cõi trời sắc giới cùng tụ hội đến hầu Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả đồng chắp tay bạch rằng:

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, Ngài đã tạo đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh ba-la-mật xong rồi. Các pháp hạnh ba-la-mật ấy không phải Ngài để mong ngôi vị các vua trời, cũng không phải để mong sinh làm phạm thiên, cũng không phải để mong ngôi vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương; mà sự thật, các pháp hạnh ba-la-mật ấy là để hỗ trợ Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, bây giờ là đúng lúc, đúng thời kỳ, để cho Ngài trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, tất cả chúng con thành kính thỉnh Ngài tái sinh làm người, để trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Lắng nghe lời thỉnh cầu của chư thiên, phạm thiên, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Ngài quán xét trong thời quá khứ: “Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã quán xét như thế nào?

Quán xét 5 điều trước khi tái sinh(4).

Theo lệ thường Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cần phải quán xét đầy đủ 5 điều như sau:

1-  Quán xét thời kỳ tuổi thọ con người: Đức Bồ Tát Setaketu quán xét thấy tuổi thọ con người vào thời kỳ ấy khoảng 100 năm, thích hợp đối với Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt.

2-  Quán xét châu đến tái sinh: Trong 4 châu loài người, cõi Nam Thiện Bộ Châu là châu mà Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

3-  Quán xét xứ sở đến tái sinh: Trong cõi Nam Thiện Bộ Châu rộng lớn, Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh trong Trung xứ vùng Sakka kinh thành Kapilavatthu.

4-  Quán xét dòng họ nơi tái sinh: Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh trong dòng họ Sakya, Đức vua Suddhodana trải qua nhiều đời vua tinh khiết (không lẫn lộn với dòng khác).

5-  Quán xét mẫu thân và tuổi thọ của bà: Bà Mahā-mayādevī chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana là người có giới hạnh trong sạch. Bà từng tạo pháp hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp và được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký rằng: “Bà sẽ là Mẫu thân của Đức Phật trong thời vị lai”. Bà chánh cung Hoàng hậu có tuổi thọ còn đúng 10 tháng 7 ngày. Đức Bồ Tát kiếp chót chọn bà Mahāmayādevī làm Mẫu thân của Ngài.

Sau khi quán xét thấy đầy đủ 5 điều rồi, Đức Bồ Tát Thiên nam Setaketu quyết định tái sinh xuống làm người để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát Thiên nam Setaketu truyền dạy rằng:

Này chư thiên, chư phạm thiên, ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi. Ta sẽ tái sinh xuống làm người trong cõi Nam Thiện Bộ châu, Trung xứ, kinh thành Kapilavatthu, trong dòng vua Sakya, Đức vua Suddhodana là phụ thân và bà Mahāmayādevī - chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, làm mẫu thân của ta”.

Sau khi lắng nghe lời truyền dạy của Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả chư thiên và chư phạm thiên vô cùng hoan hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, rồi cùng nhau xin phép trở về cảnh giới của mình. Chư thiên, chư phạm thiên loan báo cho khắp toàn thế giới chúng sinh biết rằng:

Đức Phật sẽ xuất hiện trên thế gian!

 

Đức Bồ Tát Kiếp Chót Tái Sinh Làm Người

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đấu Xuất Đà Thiên) sẽ tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī - chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, kinh thành Kapilavatthu vào ngày thứ năm, nhằm ngày rằm tháng sáu lúc canh chót.

Vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī của Đức vua Suddhodana đến hầu vị Đạo sư Kāḷadevila xin thọ trì uposathasīla (bát giới). Canh chót đêm ấy, trước khi Đức Bồ Tát tái sinh đầu thai vào lòng bà Mahāmayādevī, bà nằm mộng thấy Tứ Đại Thiên Vương cung nghinh bà lên núi Himavanta, đặt bà nằm trên một tảng đá lớn gần hồ Anotatta. Sau đó, có 4 chánh cung Hoàng hậu của Tứ Đại Thiên Vương cùng chư thiên nữ đến tắm sạch sẽ cho bà, xoa các thứ vật thơm của cõi trời, dâng những đóa hoa trời xinh đẹp, rồi cung nghinh bà đến một ngọn núi bằng bạc, có một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ và đặt bà nằm nghiêng bên phải nghỉ ngơi nơi đó. Khi ấy, một con bạch tượng cao thượng hiện đến lâu đài bằng vàng nơi bà đang nằm nghỉ. Con bạch tượng ấy đi vòng quanh nơi bà nằm 3 vòng, rồi chui vào hông phía bên phải của bà.

Khi Mahāmayādevī đang nằm mộng, đó cũng là lúc Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đâu Suất Đà Thiên), đồng thời với đệ nhất đại quả tâm (đại quả tâm thứ nhất hợp với trí tuệ đồng sinh với hỷ, không cần động viên) làm phận sự tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī, nhằm vào ngày thứ năm canh chót đêm rằm tháng sáu (âm lịch). Khi ấy, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī có tuổi thọ được 55 năm 6 tháng 20 ngày(5). Ngay lúc ấy, trái đất rùng mình rung chuyển và có 32 hiện tượng xảy ra chưa từng thấy bao giờ; chư thiên, phạm thiên trong 10 ngàn thế giới chúng sinh vô cùng hoan hỷ loan báo tin lành rằng:

Đức Bồ Tát đã tái sinh rồi!

Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī đã trải qua giấc mộng lành và sau khi tỉnh dậy, bà đến chầu Đức vua Suddhodana và tâu trình lên Đức vua về giấc mộng của bà.

 Sáng sớm hôm sau, Đức vua Suddhodana bèn truyền lệnh cho mời nhóm Bà-la-môn quân sư vào triều yết kiến. Sau khi thiết đãi và ban thưởng xong, Đức vua bèn tường thuật lại giấc mộng canh chót đêm qua của chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī cho nhóm quân sư Bà-la-môn nghe để họ cùng nhau suy đoán.

Đức vua truyền hỏi rằng:

Thưa quân sư, giấc mộng như vậy có ý nghĩa như thế nào? Xin quý quân sư tâu cho Trẫm được rõ.

Một vị Bà-la-môn trưởng bèn tâu rằng:

Muôn tâu Đại vương, xin Đại vương an tâm, chánh cung Hoàng hậu đã thụ thai, thai nhi không phải là Công chúachắc chắnThái tử, Bậc cao thượng nhất.

Nếu Thái tử sống trong triều, thì sẽ là Đức Chuyển Luân Thánh Vương trị vì thiên hạ có 4 biển làm ranh giới.

Nếu Thái tử bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh.

Từ khi Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân, do oai lực của Đức Bồ Tát, nên ngày đêm Tứ Đại Thiên Vương theo hầu, để tỏ lòng cung kính; không phải theo hộ trì bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī; bởi vì, Đức Bồ Tát kiếp chót có oai lực phi thường, nên không có một ai có thể làm hại bà được.

Mẫu thân của Đức Bồ Tátgiới đức tự nhiên, bà không phải đến làm học trò vị Đạo sư Kāḷadevila, để xin thọ giới như trước đây nữa; thân và tâm của bà thường an lạc. Tâm tham muốn trong dục lạc không hề phát sinh và khi Đức vua Suddhodana nhìn thấy bà liền phát sinh thiện tâm trong sáng, do đó Đức vua rất tôn trọng bà.

Đức Bồ Tát phát triển và tăng trưởng ở trong bào thai mẫu thân, như ở trong một căn phòng sạch sẽ và sang trọng. Đức Bồ Tát ngồi kiết già như vị Pháp sư đang ngồi trên pháp tòa, cho đến khi tròn đủ 10 tháng.

Đức Bồ Tát Kiếp Chót Đản Sinh

Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī biết gần đến ngày đản sinh Thái tử, bà đến chầu Đức vua Suddhodana bèn tâu rằng:

Muôn tâu Bệ hạ, thần thiếp xin phép trở về Cố quốc Devadaha để hạ sinh Thái tử.

Đức vua chuẩn tấu lời xin của bà và truyền lệnh cho các quan sửa sang đường sá bằng phẳng, trang hoàng đẹp đẽ từ xứ Kapilavatthu cho đến xứ Devadaha, để làm lễ tiễn đưa chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī trở về cố quốc; Đức vua còn truyền lệnh làm một chiếc kiệu mới thật sang trọng để cho bà ngự đi.

Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī được thỉnh ngự lên chiếc kiệu, các quan khiêng chiếc kiệu đi từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh thành Devadaha. Trên đường, khi đoàn người vừa đến khu vườn Lumbinī, hôm ấy, thật tuyệt vời! Cả muôn hoa đều đua nở và muôn chim cùng ca hót như hân hoan đón mừng một sự kiện trọng đại. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī muốn dừng kiệu lại, ghé vào vườn Lumbinī, để du lãm. Các quan tuân lệnh dừng kiệu.

Khi bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự vào vườn Lumbinī, hôm ấy chư thiên, chư phạm thiên tụ hội tại khu vườn, và cả vạn thế giới chúng sinh vui mừng reo hò rằng:

Hôm nay, tại khu vườn Lumbinī này, Đức Bồ Tát sẽ đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī”.

Chư thiên, chư phạm thiên, tay cầm những món quà từ cõi trời như vật thơm trời, những đóa hoa trời, nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức Bồ Tát cùng với những chiếc lọng trắng che phủ khắp không gian.

Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự đến một cây Sālā có thân to, cành cây đầy hoa đang nở rộ. Khi bà đứng đưa cánh tay phải lên, thì cành cây tự nhiên sà xuống, bà đưa tay nắm lấy cành cây với tư thế dáng đứng rất đẹp và rất vững vàng, các quan, các cung nữ che màn xung quanh nơi bà đang đứng; khi ấy, Đức Bồ Tát cao thượng đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahā-mayādevī bằng đôi chân ra trước, rồi xuôi hai tay, toàn thân mình sạch sẽ ra sau, một cách suôn sẻ an lành cho cả Đức Bồ Tát lẫn mẫu thân của Ngài. Lúc đó, vào ban ngày của ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng tư (âm lịch). Khi ấy, một dòng nước ấm và một dòng nước lạnh từ trên hư không chảy xuống làm cho sạch sẽ thân hình của Đức Bồ Tátmẫu thân của Ngài.

Khi Đức Bồ Tát cao thượng vừa ra khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī, trước tiên 4 vị Đại Phạm Thiênthiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, mỗi vị cầm mỗi chéo tấm lưới bằng vàng đón nhận Đức Bồ Tát xong, rồi đặt trước mặt bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī và tâu rằng:

Muôn tâu chánh cung Hoàng hậu, xin bà phát sinh tâm hoan hỷ! Đây là Thái tử của bà, cũng là Đức Bồ Tát kiếp chót cao thượng. Ngài là Bậc đại phước, có nhiều oai lực nhất trong tất cả chúng sinh trong tam giới.

Sau đó, Đức Bồ Tát từ trên tay 4 vị Đại Phạm Thiên được trao sang cho 4 vị Tứ Đại Thiên Vương đón tiếp bằng tấm da mềm mại; một lần nữa, Đức Bồ Tát từ tay 4 vị Tứ Đại Thiên Vương được trao sang cho các quan đón tiếp bằng tấm vải trắng tinh.

Khi ấy, Đức Bồ Tát từ trên tay các quan, bước xuống đạp trên mặt đất bằng đôi bàn chân bằng phẳng của Ngài, Đức Bồ Tát đứng quay mặt nhìn về hướng Đông, chư thiên dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Tiếp đến, Đức Bồ Tát quay mặt nhìn về hướng Nam ... hướng Tây... hướng Bắc... hướng Đông Nam... hướng Tây Nam ... hướng Tây Bắc... hướng Đông Bắc trong tám hướng, mỗi hướng chư thiênnhân loại đều dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Đức Bồ Tát cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, chư thiên, chư phạm thiên đều dâng hoa tán dươngca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong số chư thiên, chư phạm thiên hướng trên này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có chư thiên, chư phạm thiên nào cao thượng hơn Ngài.

Đức Bồ Tát đứng nhìn về hướng Bắc rồi bước đi 7 bước, bước đầu tiên Ngài bước bằng chân phải(6). Khi Đức Bồ Tát bước đi, Vua trời phạm thiên cầm chiếc lọng màu trắng che cho Ngài, Đức vua Suyāma cầm quạt lông, còn 3 thứ khác là đôi hia, gươm báu, vương miện, mỗi vị Vua trời cầm mỗi thứ đi theo sau Đức Bồ Tát. Đó là 5 bảo vật của lễ phong vương.

Đức Bồ Tát dừng lại ở bước chân thứ 7. Khi ấy tất cả chư thiên, chư phạm thiên đều bảo với nhau rằng:

Bây giờ, Đức Bồ Tát cao thượng sẽ truyền dạy những lời tối quan trọng”.

Tất cả đều im lặng, chờ lắng nghe, Đức Bồ Tát dõng dạc truyền dạy rằng:

Ago’ ham’ asmi lokassa!

 Jeṭṭho’ ham’ asmi lokassa!

 Seṭṭho’ ham’ asmi lokassa!

 Ayamantimā jāti

 Natthi dāni punabbhavo”.

Ta là Bậc Cao Cả nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Ta là Bậc Vĩ Đại nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Ta là Bậc Tối Thượng nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Kiếp này là kiếp chót của ta

 Ta không còn tái sinh kiếp nào khác nữa!”

Chư thiên, chư phạm thiênnhân loại vô cùng hoan hỷ, đồng thanh tán dương ca tụng Đức Bồ Tát.

Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là quả của nghiệp thiện mà Đức Bồ Tát đã tạo và tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ, hoàn toàn không liên quan huyết thống của Đức vua Suddhodana và chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī hay dòng dõi Sakya.



1 Nữ Bà-la-môn Sumittà chính là tiền kiếp của Công chúa Yasodhara.

2 Tìm hiểu rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo” (trang 38) cùng một soạn giả.

3 Asankheyya: A-tăng-kỳ có 4 loại:

1-  Gaṇana asaṅkheyya: A-tăng-kỳ tính bằng số là số 1 theo sau 140 số 0, viết tắt: 10140.

2-  Anumāna asaṅkheyya: A-tăng-kỳ ước lượng. Ví dụ: Trời mưa trên toàn mặt đất suốt 3 ngày, ước lượng a-tăng-kỳ số giọt mưa rơi xuống mặt đất.

3-  Kappa asaṅkheyya: A-tăng-kỳ kiếp có 4 loại:

Āyukappa: Kiếp tuổi thọ.

Antarakappa: Khoảng thời gian kiếp giảm còn 10 năm và kiếp tăng đến a-tăng-kỳ năm.

Asaṅkheyya kappa: A-tăng-kỳ kiếp trái đất hoại rồi thành trở lại.

Mahākappa: Đại kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ: a-tăng-kỳ hoại kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ không kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ thành kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ trụ kiếp trái đất.

4-  Buddha asaṅkheyya: A-tăng-kỳ thời gian tạo ba-la-mật để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác không thể tính bằng số lượng. Thời gian trải qua vô số đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không không thể tính được, như vậy gọi Buddha asaṅkheyya.

Ví dụ: Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha cần phải bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Gotama.

4 Xem rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo” trang 52-53 cùng một soạn giả.

5 Theo bộ Samantacakkhudipani.

6 Theo thói quen, Đức Phật bước chân phải trước tiên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10204)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11259)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13599)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13751)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22232)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21880)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27408)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17812)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11744)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12332)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25256)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23298)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28613)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22790)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14009)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13447)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22506)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26414)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18496)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18979)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21412)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14913)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19225)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10624)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18585)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15671)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13200)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13433)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14041)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11804)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11638)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11348)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11908)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19954)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12402)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13948)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13279)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32002)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13447)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12762)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13341)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21881)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11104)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12912)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant