Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Đức Bồ Tát Thái Tử Siddhattha đản sanh kiếp chót

03 Tháng Tám 201200:00(Xem: 12084)
01. Đức Bồ Tát Thái Tử Siddhattha đản sanh kiếp chót
Ý NGHĨA ĐÊM RẰM THÁNG TƯ
Soạn giả: Hộ Pháp


ĐỨC BỒ TÁT THÁI TỬ SIDDHATTHA

ĐẢN SINH KIẾP CHÓT

Đức Bồ Tát Thái tử đản sinh kiếp này là kiếp chót.

Vậy kiếp bắt đầu của Ngài từ thuở nào?

Thật ra, từ vô thủy trước khi Đức Bồ Tát phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì không rõ kiếp bắt đầu của Ngài. Khi Đức Bồ Tát phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt hơn đức tintinh tấn, Ngài đã trải qua vô số kiếp tử sinh luân hồi để hoàn thành 30 pháp hạnh ba-la-mật hầu mong chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trong suốt khoảng thời gian bằng một nửa thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt.

10 pháp hạnh ba-la-mật là:

1- Bố thí ba-la-mật (dānapāramī)

2-  Giữ giới ba-la-mật (sīlapāramī)

3-  Xuất gia ba-la-mật (nekkhammapāramī)

4-  Trí tuệ ba-la-mật (paññāpāramī)

5-  Tinh tấn ba-la-mật (vīriyapāramī)

6-  Nhẫn nại ba-la-mật (khantipāramī)

7-  Chân thật ba-la-mật (saccapāramī)

8-  Chí nguyện ba-la-mật (adhiṭṭhānapāramī)

9-  Tâm từ ba-la-mật (mettāpāramī)

10-  Tâm xả ba-la-mật (upekkhāpāramī)

30 pháp hạnh ba-la-mật chia làm 3 bậc:

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thường nào chỉ có hy sinh của cải tài sản, ngôi báu, thậm chí đến vợ con,… để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc thường ấy mà thôi; nhưng không liên quan đến những bộ phận trong thân thể và sinh mạng của Ngài.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc trung nào không những hy sinh của cải bên ngoài mình, mà còn phải hy sinh những bộ phận trong thân thể như mắt, v.v… để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc trung ấy; nhưng không liên quan đến sự hy sinh sinh mạng của Ngài.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng nào không những hy sinh những của cải bên ngoài và các bộ phận trong thân thể, mà còn phải hy sinh sinh mạng của Ngài để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy.

Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có 3 hạng

1-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt (paññādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 7 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trí tuệ ưu việt.

2-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt (saddhādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 14 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 18 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác đức tin ưu việt.

3-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt (vīriyādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, và gấp 4 lần thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 28 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 36 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 16 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tinh tấn ưu việt.

Đức Phật Gotama là Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt. Tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ như sau:

1-  Nanda asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

2-  Sunanda asaṅkheyya: Có 9.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  Pathavī asaṅkheyya: Có 10.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  Maṇḍa asaṅkheyya: Có 11.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

5-  Dharaṇīasaṅkheyya: Có 20.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

6-  Sāgara asaṅkheyya: Có 30.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

7-  Puṇḍarika asaṅkheyya: Có 40.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Tổng cộng trong 7 a-tăng-kỳ có 125.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Khi các pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát đã có đủ năng lực để tiến triển đến thời kỳ giữa.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói cho chúng sinh biết ý nguyện của Ngài muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 9 a-tăng-kỳ như sau:

1-  Sabbabhadda asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

2-  Sabbalulla asaṅkheyya: Có 60.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  Sabbaratanā asaṅkheyya: Có 70.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  Usabhakkhandha asaṅkheyya: Có 80.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

5-  Mānibhadda asaṅkheyya: Có 90.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

6-  Paduma asaṅkheyya: Có 20.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

7-  Usabha asaṅkheyya: Có 10.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

8-  Khandhuttama asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

9-  Sabbapāla asaṅkheyya: Có 2.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Tổng cộng trong 9 a-tăng-kỳ có 342.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

* Những tên a-tăng-kỳ (asaṅkheyya) và số lượng Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian được ghi chép trong những bộ Sotattakī, bộ Tathā-gatuppatti, Chiengmai paṇṇāsa, bộ Jinakālamāli mà trong 6 kỳ kết tập Tam TạngChú giải, Phụ chú giải không ghi lại rõ.

Tuy đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật trải qua hai thời kỳ trên, nhưng vì Đức Bồ Tát chưa được một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức Bồ Tát vẫn có thể thoái chí, từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác chỉ muốn trở thành Đức Phật Độc Giác hoặc Bậc Thánh Thanh Văn Giác.

Nếu Đức Bồ Tátquyết tâm không lay chuyển, có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, và tiếp tục tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, thì sẽ tiến triển đến thời kỳ cuối.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại, chắc chắn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đạo sĩ Sumedha đã chứng đắc 8 bậc thiền: 4 bậc thiền hữu sắc 4 bậc thiền vô sắc; chứng đắc ngũ thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông (thuộc trong tam giới). Một hôm, Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn thấy dân chúng xứ Rammavatī đang vui mừng hoan hỷ sửa sang đường sá. Muốn biết do nguyên nhân nào khiến người ta làm việc một cách hoan hỷ như vậy, Đạo sĩ liền đáp xuống và hỏi rằng:

Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này để cho ai đi, mà thấy bà con vui mừng hoan hỷ thế?

Kính thưa Ngài Đạo sĩ Sumedha, Đức Phật Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh đã xuất hiện trên thế gian. Chúng tôi đang sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp ngự qua đây.

Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh từ “Buddha” (Đức Phật), tâm vô cùng hoan hỷ, suy nghĩ: “Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều hiếm có, thật vô cùng hy hữu. Ta nên cố gắng gieo phước thiện, tạo duyên lành nơi Đức Phật”.

Đức Bồ Tát Đạo sĩ liền thưa với bà con rằng:

– Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn vị Thánh A-ra-hán ngự đến; xin bà con nhường cho bần đạo một đoạn đường, để bần đạo cùng sửa sang, đón rước Đức Phật cùng chư Thánh A-ra-hán.

Dân chúng biết Đạo sĩ có nhiều oai lực thần thông, nên họ chỉ cho Đạo sĩ đoạn đường bùn lầy khó khăn nhất. Đạo sĩ nghĩ rằng:

“Nếu ta dùng phép thần thông để sửa đoạn đường này thì quá dễ, phước thiện sẽ không nhiều được. Vậy, ta nên tự dùng sức mình để sửa sang, chắc chắn sẽ có nhiều phước thiện vô lượng”.

Đức Bồ Tát dùng sức lực của chính mình, lấy đất từ nơi khác đến để san lấp mặt bằng, công việc sửa đoạn đường còn độ một sải tay nữa là hoàn thành.

Khi ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp đến. Đức Bồ Tát Sumedha quyết định rằng: “Hôm nay ta xin cúng dường sinh mạng của ta đến Đức Phật Dīpaṅkara, bằng cách nằm sấp trên đoạn đường còn lại. Nguyện lấy tấm thân này làm một chiếc cầu, để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán ngự đi qua. Chắc chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài”.

Đức Bồ Tát Sumedha suy tư rằng:

Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì chắc chắn ta sẽ trở thành một bậc Thánh A-ra-hán trong giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng sinh khác vẫn đang chìm đắm trong biển khổ tử sinh luân hồi. Ta không đành giải thoát khổ riêng một mình ta”.

Nghĩ vậy, với tâm đại bi vô lượng thương xót chúng sinh, nên Đức Bồ Tát Sumedha phát nguyện rằng:

“Buddho bodheyyaṃ...” Khi ta tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác rồi; khi ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán y theo ta vậy (tự giác - giác tha).

“Mutto moceyyaṃ...” Khi ta tự mình giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn rồi; khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn y theo ta vậy (tự độ - độ tha).

“Tinno tareyyaṃ...” Khi ta tự mình vượt qua được biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc rồi; khi ấy, ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc y theo ta vậy (tự đáo - đáo tha).

Trong khi đó có một nữ Bà-la-môn tên là Sumittā(1) trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara, nhìn thấy Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, lấy thân mình làm chiếc cầu trên đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức tin trong sạch, kính dâng đến vị Đạo sĩ 5 đóa hoa sen, còn lại 3 đóa hoa sen, cô để cúng dường đến Đức Phật. Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên trán cúng dường đến Đức Phật. Khi ấy, Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư vị Thánh A-ra-hán ngự đi ngang qua bằng phép thần thông một cách nhẹ nhàng trên tấm thân của Đạo sĩ Sumedha; cho nên, sinh mạng của Đức Bồ Tát vẫn an toàn, chẳng hề hấn gì.

Thường Đức Phật Chánh Đẳng Giác chỉ thọ ký lần đầu tiên cho Đức Bồ Tát nào có đầy đủ 8 điều kiện như sau:

1- loài người thật (không phải Long vương hoặc chư thiên hóa thành người).

2-  Là người nam thật (không phải là ái nam, ái nữ).

3-  Kiếp hiện tại có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật, có thể chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

4-  Trực tiếp đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

5-  Là bậc xuất gia Đạo sĩchánh kiến về nghiệp.

6-  Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc, chứng đắc ngũ thông tam giới.

7-  Quyết định cúng dường sinh mạng đến Đức Phật.

8- ý nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng, quyết tâm trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha quán xét ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của Đạo sĩ Sumedha có thành tựu hay không. Với trí tuệ thấy rõ, biết rõ trong kiếp vị lai (anāgataṃsañāṇa), vị Bồ Tát Đạo sĩ này chắc chắn sẽ thành tựu như ý nguyện, nên Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệuĐức Phật Gotama”.

Đức Phật Dīpaṅkara là Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký cho Đức Bồ Tát Sumedha, tiền kiếp của Đức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát Sumedha đương nhiên trở thành Đức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta) chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong thời vị lai. Khi lắng nghe lời thọ ký của Đức Phật Dīpaṅkara, Đức Bồ Tát phát sinh tâm thiện vô cùng hoan hỷ. Tất cả nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên đồng hoan hỷ chắp tay lễ bái Đức Bồ Tát Đạo sĩ, tán dương ca tụng rằng:

Đạo sĩ Sumedha chắc chắn sẽ là mầm mống trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai”.

Từ đó, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama tinh tấn không ngừng bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật trong thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.

4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất(2)

4 a-tăng-kỳ(3)

1-  A-tăng-kỳ thứ nhất: Kể từ Đức Phật Dīpaṅkara đến Đức Phật Koṇḍañña, thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ nhất gọi là Sela asaṅkheyya, chỉ có một Đức Phật Koṇḍañña xuất hiện trên thế gian.

2-  A-tăng-kỳ thứ nhì: Kể từ Đức Phật Koṇḍañña đến Đức Phật Maṅgala, thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ nhì gọi là Bhāsa asaṅkheyya, có 4 Đức Phật là: Đức Phật Maṅgala, Đức Phật Sumana, Đức Phật Revata và Đức Phật Sobhita tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  A-tăng-kỳ thứ ba: Kể từ Đức Phật Maṅgala đến Đức Phật Anomadassī thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ ba gọi là Jaya asaṅkheyya, có 3 Đức Phật là: Đức Phật Anomadassī, Đức Phật Paduma và Đức Phật Nārada tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  A-tăng-kỳ thứ tư: Kể từ Đức Phật Anomadassī đến Đức Phật Padumutara thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ tư gọi là Ruci asaṅkheyya, chỉ có một Đức Phật Padumutara xuất hiện trên thế gian.

100 ngàn đại kiếp trái đất

Trong khoảng thời gian lâu 100 ngàn đại kiếp trái đất, có 14 Đức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gianĐức Phật Sumedha, Đức Phật Sujāta, Đức Phật Piyadassī, Đức Phật Atthadassī, Đức Phật Dhammadassī, Đức Phật Siddhattha, Đức Phật Tissa, Đức Phật Phussa, Đức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī, Đức Phật Vessabhū, Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa.

Mỗi khi Đức Phật nào xuất hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đều đến hầu Đức Phật ấy và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệuĐức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đến kiếp áp chót hóa sinh làm thiên nam tên là Setaketu trong cõi trời Tusita; cõi trời thứ tư trong 6 cõi trời dục giới.

Thỉnh Đức Bồ Tát Giáng Thế

Bốn Đức vua trời cõi Tứ Đại Thiên Vương, Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập Tam Thiên, Đức vua trời Suyāma cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua trời Santussita cõi Đấu Xuất Đà Thiên, Đức vua trời Sunimmita cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua trời Vasavatti cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cùng chư thiên 6 cõi trời dục giới, chư phạm thiên các cõi trời sắc giới cùng tụ hội đến hầu Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả đồng chắp tay bạch rằng:

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, Ngài đã tạo đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh ba-la-mật xong rồi. Các pháp hạnh ba-la-mật ấy không phải Ngài để mong ngôi vị các vua trời, cũng không phải để mong sinh làm phạm thiên, cũng không phải để mong ngôi vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương; mà sự thật, các pháp hạnh ba-la-mật ấy là để hỗ trợ Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, bây giờ là đúng lúc, đúng thời kỳ, để cho Ngài trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, tất cả chúng con thành kính thỉnh Ngài tái sinh làm người, để trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Lắng nghe lời thỉnh cầu của chư thiên, phạm thiên, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Ngài quán xét trong thời quá khứ: “Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã quán xét như thế nào?

Quán xét 5 điều trước khi tái sinh(4).

Theo lệ thường Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cần phải quán xét đầy đủ 5 điều như sau:

1-  Quán xét thời kỳ tuổi thọ con người: Đức Bồ Tát Setaketu quán xét thấy tuổi thọ con người vào thời kỳ ấy khoảng 100 năm, thích hợp đối với Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt.

2-  Quán xét châu đến tái sinh: Trong 4 châu loài người, cõi Nam Thiện Bộ Châu là châu mà Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

3-  Quán xét xứ sở đến tái sinh: Trong cõi Nam Thiện Bộ Châu rộng lớn, Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh trong Trung xứ vùng Sakka kinh thành Kapilavatthu.

4-  Quán xét dòng họ nơi tái sinh: Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh trong dòng họ Sakya, Đức vua Suddhodana trải qua nhiều đời vua tinh khiết (không lẫn lộn với dòng khác).

5-  Quán xét mẫu thân và tuổi thọ của bà: Bà Mahā-mayādevī chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana là người có giới hạnh trong sạch. Bà từng tạo pháp hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp và được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký rằng: “Bà sẽ là Mẫu thân của Đức Phật trong thời vị lai”. Bà chánh cung Hoàng hậu có tuổi thọ còn đúng 10 tháng 7 ngày. Đức Bồ Tát kiếp chót chọn bà Mahāmayādevī làm Mẫu thân của Ngài.

Sau khi quán xét thấy đầy đủ 5 điều rồi, Đức Bồ Tát Thiên nam Setaketu quyết định tái sinh xuống làm người để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát Thiên nam Setaketu truyền dạy rằng:

Này chư thiên, chư phạm thiên, ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi. Ta sẽ tái sinh xuống làm người trong cõi Nam Thiện Bộ châu, Trung xứ, kinh thành Kapilavatthu, trong dòng vua Sakya, Đức vua Suddhodana là phụ thân và bà Mahāmayādevī - chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, làm mẫu thân của ta”.

Sau khi lắng nghe lời truyền dạy của Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả chư thiên và chư phạm thiên vô cùng hoan hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, rồi cùng nhau xin phép trở về cảnh giới của mình. Chư thiên, chư phạm thiên loan báo cho khắp toàn thế giới chúng sinh biết rằng:

Đức Phật sẽ xuất hiện trên thế gian!

 

Đức Bồ Tát Kiếp Chót Tái Sinh Làm Người

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đấu Xuất Đà Thiên) sẽ tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī - chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, kinh thành Kapilavatthu vào ngày thứ năm, nhằm ngày rằm tháng sáu lúc canh chót.

Vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī của Đức vua Suddhodana đến hầu vị Đạo sư Kāḷadevila xin thọ trì uposathasīla (bát giới). Canh chót đêm ấy, trước khi Đức Bồ Tát tái sinh đầu thai vào lòng bà Mahāmayādevī, bà nằm mộng thấy Tứ Đại Thiên Vương cung nghinh bà lên núi Himavanta, đặt bà nằm trên một tảng đá lớn gần hồ Anotatta. Sau đó, có 4 chánh cung Hoàng hậu của Tứ Đại Thiên Vương cùng chư thiên nữ đến tắm sạch sẽ cho bà, xoa các thứ vật thơm của cõi trời, dâng những đóa hoa trời xinh đẹp, rồi cung nghinh bà đến một ngọn núi bằng bạc, có một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ và đặt bà nằm nghiêng bên phải nghỉ ngơi nơi đó. Khi ấy, một con bạch tượng cao thượng hiện đến lâu đài bằng vàng nơi bà đang nằm nghỉ. Con bạch tượng ấy đi vòng quanh nơi bà nằm 3 vòng, rồi chui vào hông phía bên phải của bà.

Khi Mahāmayādevī đang nằm mộng, đó cũng là lúc Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đâu Suất Đà Thiên), đồng thời với đệ nhất đại quả tâm (đại quả tâm thứ nhất hợp với trí tuệ đồng sinh với hỷ, không cần động viên) làm phận sự tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī, nhằm vào ngày thứ năm canh chót đêm rằm tháng sáu (âm lịch). Khi ấy, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī có tuổi thọ được 55 năm 6 tháng 20 ngày(5). Ngay lúc ấy, trái đất rùng mình rung chuyển và có 32 hiện tượng xảy ra chưa từng thấy bao giờ; chư thiên, phạm thiên trong 10 ngàn thế giới chúng sinh vô cùng hoan hỷ loan báo tin lành rằng:

Đức Bồ Tát đã tái sinh rồi!

Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī đã trải qua giấc mộng lành và sau khi tỉnh dậy, bà đến chầu Đức vua Suddhodana và tâu trình lên Đức vua về giấc mộng của bà.

 Sáng sớm hôm sau, Đức vua Suddhodana bèn truyền lệnh cho mời nhóm Bà-la-môn quân sư vào triều yết kiến. Sau khi thiết đãi và ban thưởng xong, Đức vua bèn tường thuật lại giấc mộng canh chót đêm qua của chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī cho nhóm quân sư Bà-la-môn nghe để họ cùng nhau suy đoán.

Đức vua truyền hỏi rằng:

Thưa quân sư, giấc mộng như vậy có ý nghĩa như thế nào? Xin quý quân sư tâu cho Trẫm được rõ.

Một vị Bà-la-môn trưởng bèn tâu rằng:

Muôn tâu Đại vương, xin Đại vương an tâm, chánh cung Hoàng hậu đã thụ thai, thai nhi không phải là Công chúachắc chắnThái tử, Bậc cao thượng nhất.

Nếu Thái tử sống trong triều, thì sẽ là Đức Chuyển Luân Thánh Vương trị vì thiên hạ có 4 biển làm ranh giới.

Nếu Thái tử bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh.

Từ khi Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân, do oai lực của Đức Bồ Tát, nên ngày đêm Tứ Đại Thiên Vương theo hầu, để tỏ lòng cung kính; không phải theo hộ trì bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī; bởi vì, Đức Bồ Tát kiếp chót có oai lực phi thường, nên không có một ai có thể làm hại bà được.

Mẫu thân của Đức Bồ Tátgiới đức tự nhiên, bà không phải đến làm học trò vị Đạo sư Kāḷadevila, để xin thọ giới như trước đây nữa; thân và tâm của bà thường an lạc. Tâm tham muốn trong dục lạc không hề phát sinh và khi Đức vua Suddhodana nhìn thấy bà liền phát sinh thiện tâm trong sáng, do đó Đức vua rất tôn trọng bà.

Đức Bồ Tát phát triển và tăng trưởng ở trong bào thai mẫu thân, như ở trong một căn phòng sạch sẽ và sang trọng. Đức Bồ Tát ngồi kiết già như vị Pháp sư đang ngồi trên pháp tòa, cho đến khi tròn đủ 10 tháng.

Đức Bồ Tát Kiếp Chót Đản Sinh

Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī biết gần đến ngày đản sinh Thái tử, bà đến chầu Đức vua Suddhodana bèn tâu rằng:

Muôn tâu Bệ hạ, thần thiếp xin phép trở về Cố quốc Devadaha để hạ sinh Thái tử.

Đức vua chuẩn tấu lời xin của bà và truyền lệnh cho các quan sửa sang đường sá bằng phẳng, trang hoàng đẹp đẽ từ xứ Kapilavatthu cho đến xứ Devadaha, để làm lễ tiễn đưa chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī trở về cố quốc; Đức vua còn truyền lệnh làm một chiếc kiệu mới thật sang trọng để cho bà ngự đi.

Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī được thỉnh ngự lên chiếc kiệu, các quan khiêng chiếc kiệu đi từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh thành Devadaha. Trên đường, khi đoàn người vừa đến khu vườn Lumbinī, hôm ấy, thật tuyệt vời! Cả muôn hoa đều đua nở và muôn chim cùng ca hót như hân hoan đón mừng một sự kiện trọng đại. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī muốn dừng kiệu lại, ghé vào vườn Lumbinī, để du lãm. Các quan tuân lệnh dừng kiệu.

Khi bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự vào vườn Lumbinī, hôm ấy chư thiên, chư phạm thiên tụ hội tại khu vườn, và cả vạn thế giới chúng sinh vui mừng reo hò rằng:

Hôm nay, tại khu vườn Lumbinī này, Đức Bồ Tát sẽ đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī”.

Chư thiên, chư phạm thiên, tay cầm những món quà từ cõi trời như vật thơm trời, những đóa hoa trời, nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức Bồ Tát cùng với những chiếc lọng trắng che phủ khắp không gian.

Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự đến một cây Sālā có thân to, cành cây đầy hoa đang nở rộ. Khi bà đứng đưa cánh tay phải lên, thì cành cây tự nhiên sà xuống, bà đưa tay nắm lấy cành cây với tư thế dáng đứng rất đẹp và rất vững vàng, các quan, các cung nữ che màn xung quanh nơi bà đang đứng; khi ấy, Đức Bồ Tát cao thượng đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahā-mayādevī bằng đôi chân ra trước, rồi xuôi hai tay, toàn thân mình sạch sẽ ra sau, một cách suôn sẻ an lành cho cả Đức Bồ Tát lẫn mẫu thân của Ngài. Lúc đó, vào ban ngày của ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng tư (âm lịch). Khi ấy, một dòng nước ấm và một dòng nước lạnh từ trên hư không chảy xuống làm cho sạch sẽ thân hình của Đức Bồ Tátmẫu thân của Ngài.

Khi Đức Bồ Tát cao thượng vừa ra khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī, trước tiên 4 vị Đại Phạm Thiênthiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, mỗi vị cầm mỗi chéo tấm lưới bằng vàng đón nhận Đức Bồ Tát xong, rồi đặt trước mặt bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī và tâu rằng:

Muôn tâu chánh cung Hoàng hậu, xin bà phát sinh tâm hoan hỷ! Đây là Thái tử của bà, cũng là Đức Bồ Tát kiếp chót cao thượng. Ngài là Bậc đại phước, có nhiều oai lực nhất trong tất cả chúng sinh trong tam giới.

Sau đó, Đức Bồ Tát từ trên tay 4 vị Đại Phạm Thiên được trao sang cho 4 vị Tứ Đại Thiên Vương đón tiếp bằng tấm da mềm mại; một lần nữa, Đức Bồ Tát từ tay 4 vị Tứ Đại Thiên Vương được trao sang cho các quan đón tiếp bằng tấm vải trắng tinh.

Khi ấy, Đức Bồ Tát từ trên tay các quan, bước xuống đạp trên mặt đất bằng đôi bàn chân bằng phẳng của Ngài, Đức Bồ Tát đứng quay mặt nhìn về hướng Đông, chư thiên dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Tiếp đến, Đức Bồ Tát quay mặt nhìn về hướng Nam ... hướng Tây... hướng Bắc... hướng Đông Nam... hướng Tây Nam ... hướng Tây Bắc... hướng Đông Bắc trong tám hướng, mỗi hướng chư thiênnhân loại đều dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Đức Bồ Tát cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, chư thiên, chư phạm thiên đều dâng hoa tán dươngca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong số chư thiên, chư phạm thiên hướng trên này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có chư thiên, chư phạm thiên nào cao thượng hơn Ngài.

Đức Bồ Tát đứng nhìn về hướng Bắc rồi bước đi 7 bước, bước đầu tiên Ngài bước bằng chân phải(6). Khi Đức Bồ Tát bước đi, Vua trời phạm thiên cầm chiếc lọng màu trắng che cho Ngài, Đức vua Suyāma cầm quạt lông, còn 3 thứ khác là đôi hia, gươm báu, vương miện, mỗi vị Vua trời cầm mỗi thứ đi theo sau Đức Bồ Tát. Đó là 5 bảo vật của lễ phong vương.

Đức Bồ Tát dừng lại ở bước chân thứ 7. Khi ấy tất cả chư thiên, chư phạm thiên đều bảo với nhau rằng:

Bây giờ, Đức Bồ Tát cao thượng sẽ truyền dạy những lời tối quan trọng”.

Tất cả đều im lặng, chờ lắng nghe, Đức Bồ Tát dõng dạc truyền dạy rằng:

Ago’ ham’ asmi lokassa!

 Jeṭṭho’ ham’ asmi lokassa!

 Seṭṭho’ ham’ asmi lokassa!

 Ayamantimā jāti

 Natthi dāni punabbhavo”.

Ta là Bậc Cao Cả nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Ta là Bậc Vĩ Đại nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Ta là Bậc Tối Thượng nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Kiếp này là kiếp chót của ta

 Ta không còn tái sinh kiếp nào khác nữa!”

Chư thiên, chư phạm thiênnhân loại vô cùng hoan hỷ, đồng thanh tán dương ca tụng Đức Bồ Tát.

Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là quả của nghiệp thiện mà Đức Bồ Tát đã tạo và tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ, hoàn toàn không liên quan huyết thống của Đức vua Suddhodana và chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī hay dòng dõi Sakya.



1 Nữ Bà-la-môn Sumittà chính là tiền kiếp của Công chúa Yasodhara.

2 Tìm hiểu rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo” (trang 38) cùng một soạn giả.

3 Asankheyya: A-tăng-kỳ có 4 loại:

1-  Gaṇana asaṅkheyya: A-tăng-kỳ tính bằng số là số 1 theo sau 140 số 0, viết tắt: 10140.

2-  Anumāna asaṅkheyya: A-tăng-kỳ ước lượng. Ví dụ: Trời mưa trên toàn mặt đất suốt 3 ngày, ước lượng a-tăng-kỳ số giọt mưa rơi xuống mặt đất.

3-  Kappa asaṅkheyya: A-tăng-kỳ kiếp có 4 loại:

Āyukappa: Kiếp tuổi thọ.

Antarakappa: Khoảng thời gian kiếp giảm còn 10 năm và kiếp tăng đến a-tăng-kỳ năm.

Asaṅkheyya kappa: A-tăng-kỳ kiếp trái đất hoại rồi thành trở lại.

Mahākappa: Đại kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ: a-tăng-kỳ hoại kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ không kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ thành kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ trụ kiếp trái đất.

4-  Buddha asaṅkheyya: A-tăng-kỳ thời gian tạo ba-la-mật để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác không thể tính bằng số lượng. Thời gian trải qua vô số đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không không thể tính được, như vậy gọi Buddha asaṅkheyya.

Ví dụ: Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha cần phải bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Gotama.

4 Xem rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo” trang 52-53 cùng một soạn giả.

5 Theo bộ Samantacakkhudipani.

6 Theo thói quen, Đức Phật bước chân phải trước tiên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34404)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16886)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13070)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22238)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14886)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23696)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17174)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19388)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27114)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14438)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13865)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22715)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14778)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17387)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12699)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13893)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10431)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14731)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17222)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12577)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12744)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10390)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28738)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11154)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16905)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15797)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12572)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11394)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19334)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12285)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28667)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10073)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21601)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17855)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26307)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11732)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10873)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22786)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12072)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10622)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11428)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11549)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant