Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Những Đại Thí Chủ Xuất Sắc Về Hạnh Bố Thí

30 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 10527)
03. Những Đại Thí Chủ Xuất Sắc Về Hạnh Bố Thí

TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ THÍ

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp


NHỮNG ĐẠI THÍ CHỦ XUẤT SẮC VỀ HẠNH BỐ THÍ

Tích ông phú hộ Anāthapiṇḍika

Tiền thân của ông phú hộ Anāthapiṇṇika là một cận sự nam trong thời Ðức Phật Padumuttara [thời kỳ Ðức Phật Padumuttara thời gian cách Ðức Phật Gotama 100 ngàn đại kiếp, trải qua 14 Ðức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian] xuất hiện trên thế gian. Một hôm, ông ngồi lắng nghe Ðức Phật thuyết pháp; nhân dịp ấy, Ðức Phật tuyên dương công đức một cận sự namthí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam thí chủ đệ tử của Ngài. Nghe thấy xong, ông vô cùng hoan hỉ, có nguyện vọng muốn trở thành người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam của một Ðức Phật trong thời vị lai.

Người cận sự nam (tiền thân của ông phú hộ Anāthapiṇṇika) ấy, kính thỉnh Ðức Phật Padumuttara cùng chư Ðại Ðức Tăng làm phước thiện bố thí, ông phát nguyện muốn trở thành người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, như người cận sự nam thí chủ của Ngài. Ðức Phật Padumuttara dùng Phật nhãn thấy rõ kiếp vị lai của người cận sự nam này nên thọ ký rằng:

Thời vị lai, Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, người cận sự nam này sẽ trở thành cận sự nam thí chủ suất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam của Ðức Phật Gotama.

Người cận sự nam ấy vô cùng hoan hỉ tạo mọi phước thiện bố thí cho đến trọn đời.

Từ thời kỳ Ðức Phật Padumuttara cho đến Ðức Phật Gotama thời gian cách 100 ngàn đại kiếp trái đất, trải qua 14 Ðức Phật, người cận sự nam ấy, trong vòng tử sanh luân hồi, do phước thiện cùng nguyện lực thường được tái sanh làm thiên nam trong cõi trời, hoặc người nam cõi người, trong gia đình phú hộ, có đức tin trong sạch, thường hoan hỉ trong việc làm phước thiện bố thí.

Kiếp hiện tại, tái sanh làm con trai trong gia đình phú hộ Sumana, cha mẹ đặt tên Sudatta. Cậu Sudatta, con phú hộ, lập ra một trại bố thí, hằng ngày phân phát vật thực cho những người cô độc không nơi nương tựa. Do đó, người đời tặng ông cái tên mới Anāthapiṇṇika, về sau, phần đông mọi người biết đến tên mới này, còn tên cũ do cha mẹ đặt ít ai biết đến.

Một lần, phú hộ Anāthapiṇṇika dẫn đầu 500 cỗ xe chở hàng đến kinh thành Rājagaha, bán cho phú hộ trong kinh thành ấy, vốn là anh em rể với nhau.

Trong dịp ấy, phú hộ Anāthapiṇṇika được nghe tin lành "Buddho" Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian, vừa nghe danh hiệu "Buddho" ông phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nghĩ rằng: "trong thế gian này nghe được danh hiệu "Buddho" hiếm có lắm, khó lắm!". Ông muốn đến hầu Ðức Phật ngay, nhưng vì ban đêm không tiện, nên nằm chờ đến sáng. Trong lúc nằm ông chỉ niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Buddho", nên tâm phát sanh ánh sáng, ông tưởng đã gần sáng liền thức dậy, ông đi đến hầu Ðức Phật vào canh chót đêm.

Ðức Phật biết rõ ông Anāthapiṇṇika sắp đến, Ngài đi kinh hành xong ngồi chờ ông. Ông vừa đến gần, Ðức Phật gọi:

- Ehi Sudatta! Này Sudatta, con hãy lại đây!

Nghe Ðức Phật gọi đích danh Sudatta, ông vô cùng hoan hỉ, bởi từ lâu mọi người chỉ biết ông với cái tên Anāthapiṇṇika mà thôi; còn tên thật của ông do cha mẹ đặt, mọi người không ai nhắc đến. Nay, nghe Ðức Phật gọi tên thật của mình, nên ông liền phát sanh đức tin trong sạch, hết lòng tôn kính Ðức Phật, đến hầu đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài.

Khi ấy, Ðức Phật thuyết pháp tế độ ông, ông lắng nghe, thực hành theo liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông tán dương ca tụng Ðức Phật rằng:

Kính bạch Ðức Thế Tôn, con thật vô cùng hoan hỉ!

Kính bạch Ðức Thế Tôn, con thật vô cùng hoan hỉ!

Ðức Thế Tôn thuyết pháp bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người đang lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối cho người có đôi mắt sáng được nhìn thấy tất cả mọi vật hiện hữu.

Con xin nguyện hết lòng thành kính xin quy y nương nhờ nơi Ðức Thế Tôn, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng.

Kính xin Ðức Thế Tôn chấp thuận con là người cận sự nam đã quy y Tam bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

Ông Anāthapiṇṇika đã quy theo cách siêu tam giới quy y (lokuttarasaraṇagamana).

Ông kính thỉnh Ðức Phật cùng 1.000 chư Ðại Ðức Tăng cúng dường vật thực vào hôm sau. Nhân dịp ấy, ông kính thỉnh Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến kinh thành Sāvatthi để tế độ dân chúng nơi đó. Ðức Phật nhận lời bằng cách làm thinh.

Từ kinh thành Rājagaha đến kinh thành Sāvatthi cách xa 45 do tuần [1 do tuần khoảng 20.482,56 mét hoặc 12,72 miles]. Mỗi do tuần ông bỏ ra số tiền 100 ngàn kahāpana (tiền Ấn) nhờ những người bạn thân xây cất một ngôi chùa, để Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng nghỉ chân. Khi ông về đến kinh thành Sāvatthi, ông chọn khu vườn của ông hoàng Jeta, rồi mua khoảng đất ấy, bằng cách lót vàng trên mặt đất, ông đã xuất kho vàng trị giá khoảng 180 triệu đồng vàng để mua đất, 180 triệu để xây cất ngôi chùa, đặt tên chùa Jetavana, và chi phí thêm số tiền 180 triệu để tổ chức lễ khánh thành dâng ngôi chùa ấy đến chư Tăng tứ phương, có Ðức Phật chủ trì chứng minh và làm phước bố thí kéo dài suốt 3 tháng.

Như vậy, đại thí chủ Anāthapiṇṇika hiến dâng tổng số tiền 540 triệu làm phước bố thí: mua đất, cho xây cất chùa Jetavana và tổ chức lễ khánh thành, làm phước bố thí.

Trong tư thất của ông thường có làm các loại bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng như:

Hằng ngày dâng vật thực bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng vật thực 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng cháo sáng bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng cháo sáng 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng vật thực đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu khách mới đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu sắp đi xa 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu bệnh 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bệnh 500 vị.

Như vậy, trong tư thất phú hộ Anāthapiṇṇika luôn luôn sửa soạn sẵn 500 chỗ ngồi để đón tiếp chư Tỳ khưu.

Trong dịp chư Tăng hội họp, Ðức Phật tuyên dương công đức ông phú hộ Anāthapiṇṇika:

"Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ upāsakānaṃ dāyakānaṃ yadidaṃ Sudatto gahapati Anāthapiṇṇiko".

"Này chư Tỳ khưu, trong hàng nam Thanh Văn cận sự nam của Như Lai, Anāthapiṇṇika tên thật Sudatta là người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí".

Phú hộ Anāthapiṇṇika, mỗi ngày 2-3 lần đến chùa Jetavana hầu Ðức Phật hoặc thăm viếng chư Ðại Ðức, Tỳ khưu, Sa di, nếu có bận rộn nhiều công việc, thì ít nhất cũng một lần, không có ngày nào mà ông không đến chùa, thành thói quen thường ngày của ông. Mỗi lần đến chùa, ông phú hộ thường mang theo những vật dụng cần thiết dâng cúng đến Ðức Phật, hoặc chư Tỳ khưu, Sa di.

Ðến ngày cuối cùng cuộc đời ông phú hộ Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, nằm trên giường, không thể đến chùa được, ông nhờ một người thân tín bảo rằng:

Này con, con hãy đến chùa, đảnh lễ dưới chân Ðức Thế Tôn bạch rằng: "Ông Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đến đảnh lễ dưới chân Ngài.

Và con đến đảnh lễ dưới chân Ngài Ðại Ðức Sāriputta bạch rằng: "Ông Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đảnh lễ dưới chân Ngài, kính thỉnh Ngài đến nhà ông với tâm bi tế độ ông".

Ngài Sāriputta nhận lời bằng cách làm thinh, rồi gọi Ðại Ðức Ānanda cùng đi theo đến nơi biệt thự của ông Anāthapiṇṇika, thăm hỏi bệnh tình của ông, Ngài Sāriputta thuyết pháp tế độ ông. Ông vô cùng hoan hỉ theo lời dạy của Ngài Ðại Ðức Sāriputta.

Phú hộ Anāthapiṇṇika vô cùng cảm kích trước tấm lòng bi mẫn của Ngài Ðại Ðức Sāriputta, đã đến thuyết pháp tế độ ông trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời.

Ngài Ðại Ðức Sāriputta với Ngài Ðại Ðức Ānanda từ giã ông phú hộ Anāthapiṇṇika không lâu, thì ông phú hộ Anāthapiṇṇika từ giã cuộc đời. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nam ở cõi trời Tusita (Ðâu suất đà thiên),sắc thân hào quang sáng ngời, trong lâu đài nguy nga tráng lệ đặc biệt hơn các thiên nam khác.

Vào canh chót đêm hôm ấy, thiên nam Anātha-piṇṇika từ cõi trời Tusita hiện xuống chùa Jetavana với ánh hào quang sáng ngời, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, đứng một nơi hợp lẽ, tán dương Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng, tán dương ân đức Ngài Ðại Ðức Sāriputta, rồi đảnh lễ Ðức Thế Tôn xin phép trở về cõi Tusita.

Sáng hôm sau, Ðức Phật dạy chư Tỳ khưu rằng:

- Này chư Tỳ khưu, canh chót đêm qua, có vị thiên nam đến hầu đảnh lễ Như Lai, đứng một nơi hợp lẽ, tán dương Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng, tán dương ân đức Sāriputta, rồi đảnh lễ Như Lai xin phép trở về cõi trời Tusita.

Ngài Ðại Ðức Ānanda đoán biết vị thiên nam ấy là ai, nên bạch Ðức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, có phải vị thiên nam ấy là vị thiện nam Anāthapiṇṇika không? Bạch Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy:

- Ðúng vậy Ānanda! Vị thiên nam ấy chính là Anāthapiṇṇika.

Vị thiên nam Anāthapiṇṇika là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin thọ hưởng sự an lạc tuần tự các tầng trời dục giới cho đến các tầng trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn nơi cõi này. Do đó, vị thiên nam Anāthapiṇṇika, khi tái sanh đến cõi Tha hoá tự tại thiên, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, vị thiên nam ấy tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới Phạm chúng thiên (Brahmaparisajjā); tiếp tục tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo – Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Ðạo – Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc giới Tịnh cư thiên (Suddhavāsa) có 5 tầng trời theo tuần tự Vô phiền thiênVô nhiệt thiênThiện hiện thiênThiện kiến thiên và đến tầng Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā) tột cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.

Tích bà đại thí chủ Visākhā

thời kỳ Ðức Phật Padumuttara, tiền kiếpcận sự nữ Visākhā đã từng phát nguyện mong trở thành cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí trong hàng cận sự nữ của một Ðức Phật trong thời vị lai. Bà được Ðức Phật Padumuttara thọ ký.

Từ kiếp đó về sau, trong vòng tử sanh luân hồi suốt 100 ngàn đại kiếp, do thiện nghiệp cho quả thường tái sanh làm thiên nữ cao quý cõi trời hoặc cõi người là con gái trong gia đình phú hộ, bà có đức tính hoan hỉ trong việc bố thí.

Kiếp hiện tại, tái sanh làm con gái của phú hộ Dhanañjaya tại kinh thành Bhaddiya, xứ Aṅga, đặt tên là Visākhā. Cô Visākhā mới lên bảy tuổi đi cùng với ông nội, phú hộ Meṇṇaka, đến nghe Ðức Phật thuyết pháp xong, cô cùng với 500 cô bạn gái đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông phú hộ Meṇṇaka cũng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng lúc ấy.

Theo sự yêu cầu của đức vua Pasenadikosala xứ Sāvatthi, toàn thể gia đình của cô Visākhā di chuyển đến xứ Sāvatthi, tạo lập thành phố Sāketa sinh sống.

Cô Visākhā trưởng thành kết hôn cùng với cậu Puṇṇavaṇṇhana con trai của phú hộ Migāra trong xứ Sāvatthi.

Cô về làm dâu trong gia đình Migāra, là gia đình theo phái ngoại đạo loã thể, không có đức tin nơi Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng.

Một hôm, chư Ðại Ðức đi khất thực đứng trước ngôi biệt thự cha chồng, cha chồng vẫn ngồi dùng vật thực ngon lành không hề quan tâm đến vị Ðại Ðức khất thực, nàng Visākhā nhìn thấy vậy nên bạch rằng:

- Aticchatha Bhante, mayhaṃ sasuro purāṇam khādati
(Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura)

Kính bạch Ngài, kính thỉnh Ngài hoan hỉ sang nhà khác, cha chồng của con dùng đồ cũ.

Ông phú hộ Migāra nghe con dâu của mình nói "Purāṇam khādati: dùng đồ cũ", ông hiểu ý nghĩa là "Asucikhādakaṃ: dùng đồ dơ". Ông tức giận quyết định đuổi nàng dâu ra khỏi nhà. Nhưng không dễ dàng như ông nghĩ, vì khi cô Visākhā về nhà chồng, thân phụ của cô gởi theo 8 vị luật sư. Mỗi khi xảy ra chuyện gì có 8 vị luật sư xét xử cô có tội hay vô tội.

Ông phú hộ Migāra mời 8 vị luật sư xét hỏi về điều cô nói "Purāṇam khādati" có ý nghĩa gì?

Cô Visākhā giải thích rằng:

- Mayhaṃ sasuro imasmiṃ attabhāve puññaṃ na karoti, purāṇapuññameva khādati
[Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura].

"Cha chồng của con, kiếp hiện tại này không làm phước thiện bố thí, chỉ hưởng quả của phước thiện bố thí cũ mà thôi.", hoàn toàn không có ý "dùng đồ dơ" như ông hiểu lầm. Như vậy, các luật sư phán xét cô hoàn toàn vô tội. Ông Migāra trình bày những lỗi khác của nàng dâu; những luật sư xét xử cô đều vô tội, chẳng qua là sự hiểu lầm của phú hộ mà thôi.

Cô Visākhā thưa rằng:

- Kính thưa quý vị luật sư, trước đây, cha chồng của con hiểu lầm rằng con có tội, đuổi con ra khỏi nhà. Qua sự xét xử, con là người hoàn toàn vô tội, nay con xin từ giã ngôi biệt thự này, trở về nhà cha mẹ của con.

Ông phú hộ Migāra khẩn khoản xin con dâu miễn chấp rằng:

- Này con, cha đã hiểu lầm, nên bắt tội con, nay cha đã biết mình có lỗi đối với con, xin con miễn chấp lỗi cho cha.

Nàng Visākhā thưa với cha chồng rằng:

- Thưa cha, con sẵn sàng miễn chấp lỗi của cha, xin cha cho con một đặc ân: con là người cận sự nữ đã quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng. Cho nên, con không thể sống thiếu Ðức Phật, thiếu nghe pháp, và thiếu tạo phước thiện bố thí cúng dường đến chư Ðại Ðức Tăng. Nếu cha muốn con ở lại đây, xin cha cho phép con được chiêm bái Ðức Phật, nghe pháp, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Ðại Ðức Tăng. Nếu không con sẽ rời khỏi nơi đây.

- Này con, cha chấp thuận theo yêu cầu của con, con được chiêm bái Ðức Phật, nghe pháp và thỉnh chư Ðại Ðức Tăng về nhà làm phước. – Ông phú hộ Migāra bảo.

Hôm sau, nàng Visākhā thỉnh Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng đến nhà dâng cúng vật thực. Khi thọ thực xong, nàng Visākhā cho người mời cha chồng đến nghe Ðức Phật thuyết pháp. Ông sửa soạn đi, thì vị Ðạo Sư phái ngoại đạo loã thể ngăn lại. Mặc dầu vậy, Ðức Phật thuyết pháp ông vẫn nghe rõ ràng từng tiếng, từng câu. Khi Ðức Phật thuyết pháp xong, ông liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu ngay khi ấy.

Ông phú hộ Migāra đến hầu Ðức Phật, đảnh lễ dưới hai bàn chân Ngài bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con là Migāra! Bạch Ngài.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, con là Migāra! Bạch Ngài.

Trước sự hiện diện của Ðức Phật, ông thưa với nàng dâu rằng:

- Này con, kể từ nay con ở ngôi vị là mẹ của ta.

Từ đó nàng Visākhā thêm vào tên là Visākhā Migāramātā: nàng Visākhā mẹ phú hộ Migāra.

Bà Visākhā Migāramātā có 20 đứa con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi đứa con trai, mỗi đứa con gái có 20 người con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi cháu trai, mỗi cháu gái lại có 20 người con: 10 con trai, 10 con gái. Như vậy, bà Visākhā Migāramātā có 20 người con, 400 người cháu và 8.000 người chắt.

Bà Visākhā Migāramātā thường hoan hỉ trong mọi phước thiện bố thí.

Một thuở nọ, bà đến đảnh lễ Ðức Phật xin phép 8 đặc ân:

1- Xin dâng y tắm mưa đến chư Tỳ khưu trọn đời.
2- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu khách mới đến.
3- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu sắp đi xa.
4- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu lâm bệnh.
5- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bị bệnh.
6- Xin dâng thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu mắc bệnh.
7- Hằng ngày xin dâng cháo buổi sáng đến chư Tỳ khưu.
8- Xin dâng y tắm đến chư Tỳ khưu ni Tăng.

Tám đặc ân này được Ðức Phật cho phép, bà Visākhā vô cùng hoan hỉ trong mọi việc làm phước thiện bố thí này.

Một dịp nọ, đến chùa nghe Ðức Phật thuyết pháp, bà Visākhā mang theo một tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý. Bà cởi trao cho đứa tớ gái, vào đảnh lễ Ðức Thế Tôn, ngồi nghe pháp, nghe xong, bà đảnh lễ Ðức Thế Tôn xin phép đi về, cô tớ gái đi về theo, để quên lại tấm choàng mahālatā tại giảng đường. Sau khi tất cả mọi người đi về hết, Ngài Ðại Ðức Ānanda nhìn thấy tấm choàng của bà Visākhā để quên lại, bạch Ðức Thế Tôn rằng:

– Kính bạch Ðức Thế Tôn, bà Visākhā đã về, để quên tấm choàng lại. Bạch Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy rằng:

– Này Ānanda con nên để một nơi hợp lẽ.

Bà Visākhā đi thăm viếng Tỳ khưu bệnh, Tỳ khưu trẻ, Sa di.... Bà bảo đứa tớ gái mang tấm choàng trở về. Cô tớ gái đã để quên tấm choàng lại trong giảng đường nên thưa:

– Thưa bà chủ, con đã để quên tấm choàng.

Bà Visākhā dạy rằng:

– Này con, con đi đến chùa lấy tấm choàng đem về, nhưng nếu Ngài Ðại Ðức Ānanda đã đem tấm choàng cất, thì con không nên lấy lại, ta xin dâng Ngài Ānanda tấm choàng ấy, nghe con!

Ngài Ðại Ðức Ānanda nhìn thấy cô tớ gái liền hỏi rằng:

– Này con, con đến đây để làm gì?

– Bạch Ngài Ðại Ðức, con để quên tấm choàng của bà chủ, nên trở lại đây để lấy. – Cô tớ gái thưa.

– Này con, bần tăng đã đem treo ở chỗ kia, con hãy đến lấy đem về.

– Kính bạch Ngài Ðại Ðức, bà chủ con dặn rằng: nếu Ngài Ðại Ðức đã đụng chạm vào tấm choàng ấy rồi, thì bà xin dâng Ngài tấm choàng ấy.

Cô tớ gái trở về, không mang theo tấm choàng, thưa lại với bà chủ sự việc trên.

Bà Visākhā dạy cô tớ gái rằng:

– Này con, tấm choàng ấy Ngài Ðại Ðức đã đụng chạm, ta đã dâng đến Ngài rồi, như vậy, Ngài phải giữ gìn nó là một điều vất vả. Vì vậy, con hãy đến đem tấm choàng ấy về đây bán nó, để sắm những vật dụng cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Nghe theo lời dạy của bà Visākhā, cô tớ gái đến chùa đem tấm choàng ấy về trao lại cho bà.

Bà Visākhā đem bán tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng. Với giá ấy, không có một nhà phú hộ nào có khả năng mua nổi tấm choàng ấy. Cuối cùng, chính bà Visākhā mua lại nó với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng, bà đến bạch Ðức Thế Tôn rằng:

– Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài Ðại Ðức Ānanda dùng tay đụng tấm choàng của con, để cất giữ, nên con không dám lấy lại; con xin xả tấm choàng ấy bằng cách bán nó, để sắm những vật dụng hợp pháp cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Kính bạch Ðức Thế Tôn, ngoài con ra, không có một ai mua nổi với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng. Vậy chính con mua lại tấm choàng ấy với giá đó. Bạch Ngài.

Kính bạch Ðức Thế Tôn, trong bốn thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bệnh, thứ nào cần thiết nhất? Bạch Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy:

– Này Visākhā con! Vậy con nên xây cất một ngôi chùa gần phía Ðông cửa thành Sāvatthī, để dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Vô cùng hoan hỉ, vâng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn, bà mua đất giá 90 triệu đồng vàng, cho xây cất ngôi chùa "Pubbārāma". Dưới sự chỉ dẫn của Ngài Ðại Ðức Mahāmogallāna, công trình xây dựng suốt 9 tháng mới hoàn thành chi phí thêm 90 triệu đồng vàng; và tổ chức lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng tứ phướng có Ðức Phật chủ trì, rồi làm phước bố thí kéo dài suốt 4 tháng, chi phí thêm 90 triệu nữa.

Như vậy, bà đại thí chủ Visākhā Migāramātā đã hiến dâng tổng số tiền 270 triệu làm phước bố thí: mua đất, xây cất ngôi chùa Pubbārāma và làm lễ khánh thành.

Tại tư thất của bà Visākhā Migāramātā cũng như tư thất của phú hộ Anāthapiṇṇika, hằng ngày buổi sáng dâng cúng cháo đến chư Tỳ khưu, buổi trưa dâng vật thực đến chư Tỳ khưu, buổi chiều bà đem nước trái cây, thuốc trị bệnh đến dâng cúng đến chư Tỳ khưu bị bệnh v.v....

Ðức Phật tán dương bà là người cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh bố thí trong hàng cận sự nữ đệ tử của Ngài như sau:

Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ dāyikānaṃ yadidaṃ Visākhā Migāramātā.

Này chư Tỳ khưu, trong hàng nữ Thanh Văn cận sự nữ của Như Lai, Visākhā Migāramātā là cận sự nữ thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí.

Bà Visākhā có tuổi thọ sống lâu 120 tuổi, cuộc đời của bà từ thuở ấu niên, trung niên cho đến lão niên đều hưởng sự an lạc, sống trong cảnh giàu sang phú quý; đó là quả của mọi phước thiện, nhất là phước thiện bố thí. Cho nên, trong suốt cuộc đời của bà không phải gặp cảnh khổ cực thiếu thốn về vật chất. Bà có nhiều tài sản của cải, lại càng hoan hỉ tạo nhiều phước thiện bố thí cho đến ngày cuối cùng cuộc đời của bà. Sau khi bà từ giã cõi người, do năng lực thiện nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nữ trong cõi Hoá lạc thiên, cõi trời dục giới thứ 5, trở thành chánh cung hoàng hậu của đức vua trời Sunimmita, hưởng sự an lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 80.000 năm (so với cõi người 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm nơi cõi trời này bằng 800 năm cõi người).

Bà là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin thọ hưởng sự an lạc tuần tầng trời dục giới cho đến các tầng trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn trong cõi này. Do đó, khi tái sanh làm thiên nữ cõi Tha hoá tự tại thiên, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, thiên nữ Visākhā tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh làm phạm thiên (không còn nữ tính) cõi trời sắc giới Phạm chúng thiên; tiếp tục tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo – Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Ðạo – Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc giới Tinh cư thiên có 5 tầng theo tuần tự cho đến tầng Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā) tột cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.

Tích đức vua Asoka

Sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn, Phật lịch 218, đức vua Asoka là một đấng minh quân trị vì cõi Nam thiện bộ châu, có nhiều oai lực đặc biệt như thần thông, Ðức Vua có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.

Một hôm, đức vua Asoka nhìn thấy Ðại Ðức Sa di Nirodha mới lên bảy tuổi, là bậc Thánh A-ra-hán đang đi khất thực, Ðức Vua phát sanh đức tin đặc biệt nơi vị Ðại Ðức Sa di Nirodha (Ðại Ðức Nirodha kiếp trước đã từng là anh của Ðức Vua). Ðức Vua truyền lệnh các quan thỉnh mời Ðại Ðức Sa di Nirodha vào cung điện, thỉnh ngoài trên ngai vàng cao quý, tự tay Ðức Vua để bát bằng những món vật thực của Ðức Vua dùng hằng ngày. Khi vị Ðại Ðức Sa di thọ thực xong, Ðức Vua bèn thỉnh Ngài thuyết pháp.

Vị Ðại Ðức Sa di Nirodha thuyết dạy bài kệ trong Pháp cú:

"Appamādo amatapadaṃ,
Pamādo maccuno padaṃ...".

"Không dể duôi, có chánh niệm,
là đường bất tử Niết Bàn,
Dể duôi là con đường tử...".

Ðức vua Asoka nghe pháp xong, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng gấp bội.

Hằng ngày Ðức Vua cúng dường vật thực đến chư Tỳ khưu Tăng gồm có 600.000 vị tại cung điện của Ðức Vua, bởi do đức tin trong sạch nơi vị Ðại Ðức Sa di Nirodha.

Một hôm Ðức Vua dự lễ bố thí tứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng 600.000 vị, Ðức Vua bèn bạch chư Tỳ khưu Tăng rằng:

- Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, chánh pháp mà Ðức Phật thuyết giảng có bao nhiêu pháp môn? Bạch quý Ngài.

Chư Ðại Ðức thưa:

- Thưa Ðại Vương! Chánh pháp mà Ðức Phật thuyết giảng có 84.000 pháp môn.

Ðức Vua phát sanh đức tin trong sạch nơi 84.000 pháp môn, nên Ðức Vua truyền lệnh cho các quan ở khắp mọi nơi trong nước rằng:

- Trẫm muốn cúng dường mỗi pháp môn bằng một ngôi chùa và một bảo tháp, vậy Trẫm muốn xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp trên toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, các khanh hãy đến mỗi tỉnh xây cất một ngôi chùa để cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và ngôi bảo tháp để tôn thờ Xá Lợi của Ðức Phật.

Ðức vua Asoka xuất ra số tiền gồm có 960 triệu kahāpana để lo xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp. Ngôi chùa trung tâm tại thủ đô đặt tên Asokārāma.

Việc xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp suốt 3 năm mới hoàn thành.

Các quan ở mỗi tỉnh đến chầu Ðức Vua cùng một ngày, tâu lên Ðức Vua rõ, những ngôi chùa và những ngôi bảo tháp đã hoàn thành rồi.

Ðức Vua truyền chiếu chỉ trong toàn cõi Nam thiện bộ châu biết rằng: "còn 7 ngày nữa sẽ làm đại lễ khánh thành những ngôi chùa và những ngôi bảo tháp ở từng nơi, tất cả mọi thần dân trong nước đều thọ trì bát giới, sửa soạn làm đại lễ khánh thành tất cả các ngôi chùa và ngôi bảo tháp, để cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng từ kinh thành đến các tỉnh thành".

Ngày đại lễ khánh thành chùa và bảo tháp, trong kinh thành cũng như các tỉnh thành trang hoàng đẹp đẽ như cõi trời, Ðức Vua cùng các quan cũng như dân chúng trang điểm đẹp đẽ trang nghiêm, đi dự đại lễ khánh thành chùa và tháp bảo.

Ðức Vua ngự đến ngôi chùa Asokārāma ở trung tâm chính tại kinh đô, kính thỉnh chư Tỳ khưu Tăng toàn cõi Nam thiện bộ châu đến dự đại lễ khánh thành và thọ nhận 84.000 ngôi chùa cùng bảo tháp ở mỗi nơi, có khoảng 800 triệu vị Tỳ khưu Tăng và 9.600.000 vị Tỳ khưu ni Tăng. Trong số đó có 100.000 bậc Thánh A-ra-hán.

Chư bậc Thánh A-ra-hán suy tư rằng: "Nếu đức vua Asoka được nhìn thấy rõ việc đại bố thí 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp, mà Ðức Vua đã truyền lệnh xây cất, nay làm lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng, sẽ làm cho Ðức Vua vô cùng hoan hỉ, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Tam bảo".

Khi ấy, một vị Thánh A-ra-hán liền hóa phép thần thông "Mở thế gian" (Lokavivaraṇa), Ðức Vua nhìn thấy mọi nơi không có gì che khuất cả. Dầu Ðức Vua đang đứng tại ngôi chùa Asokārāma trung tâm, mà có thể nhìn thấy rõ bốn hướng toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, thấy rõ 84.000 ngôi chùa và 84.000 ngôi bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Ðức Phật.

Thật vậy, đức vua Asoka vô cùng hoan hỉ hơn bao giờ hết, Ðức Vua suy tư rằng: sự việc đại bố thí như thế này, không biết đã có ai từng làm chưa?

Vì vậy Ðức Vua bèn bạch hỏi chư Ðại Ðức Tăng:

- Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, trong giáo pháp Ðức Thế Tôn của chúng ta, có thí chủ nào làm phước đại bố thí như thế này không?

Chư Ðại Ðức Tăng kính thỉnh Ðại Ðức Moggali-puttatissatthera trả lời câu hỏi của Ðức Vua.

Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera trả lời rằng:

- Thưa Ðại Vương, trong Phật giáo, việc đại bố thí của Ðại Vương như thế này, dầu khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền cho đến nay, chưa có một ai làm được như vậy. Chỉ có Ðại Vương là đại thí chủ làm lễ đại bố thí lớn lao nhất từ trước cho đến nay mà thôi.

Ðức Vua lắng nghe câu trả lời của Ngài Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera rồi phát sanh hỉ lạc chưa từng có, rồi suy tư rằng: "Từ trước cho đến nay, chưa có thí chủ nào làm phước đại bố thí như ta, ta là một đại thí chủ bố thí 4 thứ vật dụng lớn lao như thế này, chắc có lẽ ta là thân quyến kế thừa Phật giáo (Dāyādo sāsanassa) có phải không?".

Do đó, Ðức Vua bèn bạch hỏi Ðại Ðức Moggali-puttatissatthera rằng:

– Kính bạch Ngài Ðại Ðức, con đã làm đại bố thí bốn thứ vật dụng lớn lao như thế này, vậy, con có phải là "Thân quyến kế thừa của Phật giáo" hay không?

Ngài Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera quán xét về ba la mật của thái tử Mahinda và Công chúa Saṃghamittā con của Ðức Vua như thế nào. Ngài biết rõ Thái tửCông chúa xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giúp cho Phật giáo phát triển tốt đẹp sau này. Cho nên Ngài đáp rằng:

– Thưa Ðại vương, người trở thành thân quyến kế thừa Phật giáo không phải do nhân đại bố thí. Dầu người đại thí chủ bố thí bốn thứ vật dụng nhiều đến bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ gọi là: paccayadāyaka: đại thí chủ bố thí 4 thứ vật dụng, hoặc gọi là: upaṭṭhāka: người hộ độ mà thôi....

Thưa Ðại vương, sự thật, người nào dầu bố thí bốn thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng chất chồng từ mặt đất cao đến cõi trời, người ấy không thể gọi là thân quyến kế thừa của Phật giáo.

Lắng nghe lời dạy của Ngài Ðại Ðức Moggali-puttatissatthera như vậy, nên đức vua Asoka cống hiến vị hoàng thái tử Mahinda yêu quý nhất, cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, thay vì truyền ngôi báu, và công chúa Sanghamitta xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong Phật giáo.

Ðức vua Asoka không chỉ là một đại thí chủ chưa từng có từ trước cho đến nay, mà còn là một thân quyến kế thừa của Phật giáo, bởi vì Ðức vua đã cống hiến, cho phép 2 người con xuất gia trong Phật giáo, Người có công đức lớn gởi các phái đoàn Ðại Ðức Tăng sang truyền bá Phật giáo ở đảo quốc Srilankā và vùng Suvaṇṇabhūmi gồm các nước Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.

Trên đây là những nhân vật đại thí chủ xuất sắc nhất về phước hạnh bố thí trong thời kỳ Ðức Phật còn hiện tiền, và sau thời kỳ Ðức Phật đã tịch diệt Niết Bàn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34402)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16885)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22993)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13070)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21992)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22236)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14885)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24158)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23685)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17168)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19387)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27110)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14438)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13864)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22712)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14778)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17386)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12699)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13893)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10429)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14728)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17221)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12573)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12744)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10389)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28738)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11153)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16905)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15796)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12572)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11394)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13052)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19334)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12284)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28661)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10070)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21594)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17854)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26301)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11728)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10873)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22784)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12070)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10622)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11426)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11549)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant