Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Cạm Bẫy Tinh Thần

30 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6674)
09. Cạm Bẫy Tinh Thần
HÀNH HƯƠNG TÂM LINH
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh


CẠM BẪY TINH THẦN

Triết Hựu đứng bất động trước sân ngôi đại tự. Đôi chân nhức mỏi, chàng đứng như vậy cho đến lúc hết nhức mỏi. Trong cơn nóng như đổ lửa, mồ hôi chảy ra như tắm; chàng đứng như vậy cho đến lúc khô ráo mồ hôi. Đôi mắt chàng nhìn thấy những ảnh tượng quay cuồng, chàng trừng trừng nhìn mãi cho đến lúc ảnh tượng hết quay cuồng.

Cơn nhức buốt nội tâm đến một lúc nào đó cũng vọng bặt, chỉ còn tượng đá, chân không và chàng!

Sự chìm đắm không thể cưỡng lại của một đêm ngủ hoang trong căn nhà lạ với thiếu phụ đang xuân là dấu hiệu sa đọa tột cùng, không thể nào tha thứ được. Con sư tử trong chàng sau đó mới thức dậy, đã lên án chàng mãnh liệt: “Xin đừng, xin đừng”. Xin đừng làm chi nữa, muộn lắm rồi. Bùn đen đã ngập sâu phía bên này khối óc; còn một nửa bên kia đang còn tỉnh thức đây; tỉnh thức để miệt thị, khinh bỉ. Và rồi để tê tái đến tận cùng da thịt. Còn đâu niềm tự hào và hãnh diện đầu đời? Còn đâu sự trong sáng của những thiên thần cánh trắng; đã biết bao lần tung bay trên cõi trời tinh thần cao đại, xanh mây và hoằng viễn? Ôi! Thiên thần đã gãy cánh, hay đôi cánh đã gởi lại trên kia, đành đoạn cho thân xác rơi tuột vào lòng hố thẳm để cùng vọng âm với vô thức tăm tối ngàn đời?

… Hình như đã lâu xa lắm rồi, buổi sáng thức dậy kinh hoàng, … rằng thế là hết, rằng thế là đã đánh mất thiên đàng, rằng thế là đã ăn trái cấm. Và thế là Thượng đế trong chàng đã xua đuổi chàng xuống trần gian để tạo tác, để lao lực, để khổ, để vui…!

- Tôi cân lường được giá trị hữu tínhhư vô của một đêm vui thú với nàng. Tôi sẽ không chạy trốn trách nhiệm - chàng nhấn mạnh, trịnh trọngchân thành - Bởi vậy, nàng hãy cho tôi biết nguyện vọng thiết tha nhất của đời nàng, dĩ nhiên là trong khả năng mà tôi có thể đáp trả. Nàng hỡi, là nam nhi đại trượng phu, tôi sòng phẳngminh bạch về nhân quả. Tôi đang sẵn sàng, hãy nói đi, nàng hỡi!

Thiếu phụ lại đến bên chàng, nhỏ nhẹ, âu yếm, hơi thở thơm như mùi hoa lan. Chàng rùng mình, tất cả đều như mới. Như mới. Khuôn mặt kiều mị, diễm lệ, sạch như một tấm gương, rạng rỡ như đã qua đi ngày tháng đông dài. Đang xuân. Chàng lại rùng mình, lách ra xa người thiếu phụ.

- Xin nàng hãy ban cho tôi một đặc ân: một khoảng cách để tôi có đủ sự khôn ngoan, tỉnh trí, sáng suốt. Thú thật, bên nàng, sự ngạo nghễ của lý trí phải đầu hàng, sự kiêu hãnh của trí năng phải khuất phục. Nàng đừng so kiếm với một chiến sĩ đã ngã ngựa. Hãy thương hại tôi, nàng hỡi…!

Triết Hựu van lơn. Ôi, yếu đuối quá. Sỉ nhục quá. Canh bài này chàng đã thua đến láng tẩy. Đã trắng túi. Một cuộc đời đã rụng. Ôi sao mai! Ôi bình minh! Ôi sương sớm!

- Chàng sợ? - lại cười, nụ cười chết người - Thiếp cũng sợ. Thiếp phạm tội với Thượng đế là đã trở ngăn chàng giữa đường, làm chiếc lồng son để nhốt con chim xanh. Kia là bầu trời, kia là thượng giới… Chàng hãy bay!

Triết Hựu đưa mắt nhìn với vẻ biết ơn, đầy cảm kích.

- Nhưng chàng ơi! - Thiếu phụ lại tiếp - Cả trần gian này có sự lỡ lầm nào mà không làm cho ta khôn lớn và trưởng thành? Sự ban ân nào mà không nhằm vị ngã? Niềm vui nào mà không có nước mắt? Chàng là một thanh niên ưu tú, trí thức há không chiêm nghiệm rằng, nhờ tối mới biết sáng? Nhờ tử sinh mới có niết-bàn? Nhờ nếm lạc thú ái ân mới biết được sự thanh cao của người thoát tục? Ôi, “nếu chẳng có địa ngục thì thiên đàng buồn tẻ biết bao nhiêu?” Thiếp cảm ơn chàng đã cho thiếp một đêm xuân trọn vẹn. Chàng thấy đó, chàng đã không mất mát gì mà còn được lợi. Cho đi ít, nhận về nhiều; chàng còn than thở, hối hận cái nỗi gì?

Ta không mất mát gì ư? Có thật thế không? Một sự đổi chác mà cả hai bên đều là kẻ có lợi? Nàng được sưởi ấm giấc xuân, còn tôi, nhận biết thêm cái cuồng dục cảm giác làm nền tảng cho mọi cuộc sinh tồn? Triết Hựu thấy mình không thể trả lời cho ổn thỏa về điểm này. Nhưng chắc chắn là phía thân xác đang gật đầu đồng ý mà bên tinh thần thì đang khẳng khái và cường liệt phủ nhận. Cả đúng sai lưỡng nghịch đồng hiện hữu trong chàng. Chúng làm một cuộc chiến tranh. Và tôi là một bãi sa trường. Ai sống, ai chết không biết, nhưng tôi khổ đau. Điều này là thực nhất. Nàng lợi hay tôi lợi, cái đó không biết; nhưng nàng đang rạng rỡ, đã thỏa mãn. Điều này cũng thực nhất.

Triết Hựu trình bày điều đó cho thiếu phụ nghe. Nàng ôm chàng thân yêu rồi cười ròn rã:

- Ôi, sự ngây thơ của lý trí! Chàng vì hiểu quá cao nên thành ấu trỉ, thiếp nhờ hiểu thấp cho nên đã nói đúng với sự thật đời thường. Có phải chàng nhờ nếm trải được lạc thú ái ân nên mới biết thế nào là sinh tồnđịa ngục. Cả sự huyễn hóa của mộng nữa. Vậy có phải là nhờ đau khổ - ví dụ vậy - mà chàng sẽ thành tựu được hạnh phúc to lớn sau này sao? Còn thiếp có phải vì hạnh phúc một chút - hạnh phúc phù du - mà sau này phải vò võ năm canh để nhớ, để thương, để hờn, để tủi? Đây là chưa kể phải kiêng, phải cữ để bảo dưỡng thai nhi chín tháng mười ngày, nếu lỡ…!

Ừ! Quả thật như vậy thì sao? Ta đau khổ đồng thời ta cũng hiểu rõ sức mạnh của bản năng. Còn nàng? Phải. Nàng đã thiệt thòi quá nhiều, đau khổ quá dài ngày.

- Đã biết vậy sao nàng còn bày ra chi chuyện…?

- Vì nghiệp chướng - thiếu phụ bình thản trả lời - Vì không sợ quả cho nên cứ thích gieo nhân. Thiếp có đủ can đảm để chấp nhận hậu quả. Ồ, Giản dị quá!

- Đừng lý luận “địa ngục” với tôi - chàng tức giận nói - Ôi thuyền quyên! Ôi thục nữ! Nàng đừng làm cho tôi nhìn cuộc đời bằng đôi mắt ghê tởm…

Thiếu phụ khẽ thở dài:

- Thôi, chàng hãy ra đi đi, đừng nói đến bổn phận và trách nhiệm nữa. Bổn phận và trách nhiệm hãy để cho những người ở trong cuộc đời... May ra...

Thiếu phụ bỏ lửng câu nói. Dù chàng đã gặn hỏi mấy lượt, thiếu phụ vẫn không trả lời. Nàng chỉ cười, yên vui, bình tịnh, trong sáng! Cuộc tiễn đưa rồi cũng xảy ra giữa ba người. Một chén rượu say… để nhớ. Lại cười! Triết Hựu thảng thốt nhận chân rằng, không còn dấu vết gì ở nơi thiếu phụ cả. Dấu vết là ở nơi chàng thôi, chàng mang theo bên mình không rời phút giây ấy, hình ảnh ấy, nụ cười ấy, hơi thở ấy. Tất cả. Tất cả. Kể cả ám ảnh tội lỗi nữa. Chàng không đi mà chàng chạy. Cánh tay lụa trắng vẫy vẫy sau hàng dậu xanh. Ôi, một đêm bằng cả cuộc đời. Chàng học được nhiều quá. Nhưng còn điều gì thiếu phụ chưa nói hết? Sao lại là... trong cuộc đời? Và may ra là gì? Chàng sẽ bằng lòng ở trong cuộc đời với những tầm thường và vô vị ấy ư? Chàng sẽ thỏa hiệp với đời sống mà nếu lặp đi lặp lại mãi sẽ đọa làm thú vật? Dĩ nhiên, là một con người với ánh sáng trong tâm, chàng đã cương quyết lễ độ chối từ. Và ra đi. Khi ra đi chàng cũng đã không dám hứa hẹn điều gì nhưng nguyện thầm với lòng là bao giờ tìm ra con đường, chàng sẽ nghĩ đến hai nàng.

Những nơi đã đi qua, những thánh tích, những hang động, những rừng già - không hề thấy bóng dáng các bậc chân sư. Cuộc đời chỉ có hai hạng người: Danh và lợi. “Người xin lửa”, đấng Guru của chàng cũng đã du hành về phương trời nào mất hút. Cuối cùng chỉ còn lại một mình chàng, giữa cuộc đời, lộ trình vô địnhvô vọng trước mặt cùng với Thượng đế trên cao.

May mắn thay, ý chí chàng vẫn còn tồn tại. Nhờ ý chí kiêu hùng và kiên định này chàng sẽ nhảy qua được hố thẳm của kiếp người.

Một ngày kia chàng đến một ngôi đại tự, nhìn nụ Cười bình an, che chởbao dung của đức Phật, chàng nẩy ra ý định xuất gia. Vết nhơ tâm hồn và thể xác may ra nhờ đời sống thanh cao phạm hạnh sẽ tẩy sạch đi chăng? Đấng Guru của chàng không xuất thân là sa-môn Thích tử đó sao? … Với ý định như vậy, bây giờ chàng đứng đây, chàng xin nhập viện. Chàng hy vọng lập lại cuộc đời trong sạchthánh thiện.

Một ngày lên. Mặt trời đỏ hừng hực từ phương đông, thiêu đốt chàng khi lên hướng chánh nam và làm chàng như bốc lửa trên quỹ đạo về phương tây. Đêm xuống, cơn lạnh tràn vào thấm dần từng lớp da thịt bên ngoài rồi len lỏi vào xương tủy. Chừng nửa khuya thì bên ngoài bên trong là một: một khối băng duy nhất. Tuy thế, vị sư già không cho chàng nhập viện.

Từ lâu xa rồi, những du tăng muốn xin nhập chúng, họ ngồi khom lưng với khăn gói tay nải suốt ngày này qua ngày khác ngoài huyền quan, mặc dầu bị cự tuyệt, nhưng những vị sư hành cước ấy vẫn ngồi mãi trong tư thế “đình cật” (Ngồi cúi gập đầu xuống) như vậy; với cái kiên cố bất động như vậy, không ăn, không uống, không nắng, không mưa, không ngày, không đêm, không nóng, không lạnh… Có một lúc nào đó họ thắng được vị chủ trì, giám viện chăng? 

- Người tuổi trẻ còn đợi đến bao giờ? 

Vị tri khách ái ngại hỏi.

- Cho đến bao giờ ngài phương trượng đổi ý.

- Nếu ngài không đổi ý?

- Thì đệ tử còn đứng nữa.

Vị tri khách gật gật đầu:

- Hy vọng cái hữu hạn của ý chí người thắng được cái cương quyết vô hạn của đức phương trượng.

Tiếng chuông công phu sáng đổ hồi. Tiếng kinh vẳng vào tai chàng tưởng như kéo dài đến vô tận. Từng vùng sáng từ các cửa sổ nhảy túa ra tràn lan trên bực thềm.

Cửa chánh điện được mở ra trong màu sắc huy hoàng: Đại sư phương trượng khoan thai từng bước một đi ra, dáng dấp to lớn của ngài chiếm một khoảng lớn trong mắt chàng. Đến sân, đại sư đưa mắt nhìn ra bóng đêm: người tuổi trẻ vẫn còn đứng bất động ở đấy.

Đại sư lạnh lùng hỏi:

- “Ngài” có lạnh không?

- Đệ tử chiến thắng được cái lạnh.

- Đói?

- Đệ tử coi thường.

- Mệt mỏi?

- Chúng chỉ là pháp sanh diệt.

- Một nhân cách phi thường. Tốt lắm.

Nói xong, đại sư phương trượng quay lưng đi thẳng sau khi ra dấu đóng cửa chánh điện lại. Bóng ngài khuất hút trên hành lang dẫn về hậu điện. Và Triết Hựu còn lại một mình. Rồi một ngày mới lại lên. Mặt trời lại bắt đầu thiêu đốt. Đến trưa, chàng cơ hồ không còn nước để bốc hơi nữa. Đã khô kiệt.

Một chú tiểu chạy ra mang theo một đĩa cơm. Triết Hựu liếc mắt nhìn rồi nghe bụng đói cồn cào. Đã ba ngày ba đêm rồi chàng chưa ăn gì cả, lại không có một giọt nước. Chắc là đại sư phương trượng sai người đem đến cho ta chăng? Ngài cho ta ăn, thế nghĩa là ngài đã đổi ý? Ý chí ta đã chiến thắng được ngài? Chợt dưng chàng nghe hân hoan vô cùng. Ta sẽ được nhập chúng. Ta sẽ được ngày ngày y bát trang nghiêm đi theo vết chân của đấng Guru ta, làm một sa-môn khổ hạnh cao thượng, đồng thời lại được sống dưới bóng dáng đại bi, bao dung của đức Phật. Và ta sẽ dần dần soi thủng được bóng tối nội tâm kinh khiếp.

- Ngộ Không! Ngộ Không!

Chú tiểu đã đến bên chàng với đĩa cơm trên tay. Chàng vừa định mở miệng hỏi thì một con chó đen lù lù từ lùm cây chạy ra - sủa ăng ẳng rồi quấn quít bên chân chú tiểu.

- Ngộ Không là không cả tiếng kêu nữa nghe mày?

Chú tiểu một tay để đĩa cơm xuống đất, một tay cầm chiếc roi nhỏ đưa lên cao. Con chó đen vẫy đuôi nhưng thấy bóng dáng chiếc roi lại dợm chân thối lui, vừa vẫy vẫy vừa kêu ăng ẳng.

- Ngộ Không là không vẫy đuôi, không kêu, không chạy tới, không chạy lui, không roi, không gậy, không cơm, không đói, không ăn. Không cái gì hết nghe mày. “Ngay chữ không cũng không luôn”.

Chú tiểu chăm chăm nhìn vào mặt chó, nhịp nhịp roi dặn dò. Chó nằm phục xuống, bò từng bước ngắn.

- Cả không nằm, không bò, không lết, nghe không? Đồ chó! Mày chẳng Ngộ Không gì ráo trọi.

Chó nằm im. Thè lưỡi ngước mắt nhìn chú tiểu. Thở. Yên lặng.

- Ờ, được đó. Coi được đó. Mày đã nhận được “tâm ấn” của tao rồi. Ngay khi mày “ngộ không tất cả” là mày sẽ có “được tất cả”. Đây, cơm đây, canh đây, ăn đi nào!

Triết Hựu quay mặt đi và nuốt nước bọt, nhưng chàng chỉ nuốt được hơi và cái gì chát đắng như muối làm ran rát cả cổ họng. Họ muốn làm cụn nhụt ý chí của ta đây. Nhưng ta sẽ thắng, chàng tự nhủ. Đồng thời con sư tử bên trong chàng lại rống lên: “Hãy kiên cường. Hãy cứng. Hãy mạnh.”

Và chàng lại nhìn bất động về phía trước.

Ngộ Không ăn xong, chú tiểu liếc nhìn Triết Hựu nở nụ cười dí dỏm rồi chạy khuất vào bên trong.

Loáng thoáng bên tai chàng, hai vị sư nói chuyện với nhau:

- Y không đói chăng?

- Chắc không.

- Y có khát không?

- Chắc không.

- Đố đại huynh, cái gì giống hình người mà không đói, không khát?

- Dễ ợt - cái tượng đá.

- Sai rồi, sai rồi. - Giọng cười ha hả rồi hinh hích đầy đắc ý - Cái vị du hành giả kia!

Không sao. Chàng nghĩ. Làm một tượng đá bất động giữa trời cao cũng ngạo nghễ lắm chớ. “Trong tiếng nói vô ngôn của tượng đá chứa đựng tám muôn bốn nghìn tòa sư tử, và nơi này là cõi tráng lệ, tịch mặc của đạo ca, của huyền tính” Triết Hựu mỉm cười thầm lặng. Các người biết gì về cái tượng đá đó không? Mây chiều nắng sớm ru ta ngủ. Ngàn năm trước, ngàn năm sau ta chưa một lần chợp mắt nhìn cuộc thiên diễn bể dâu, hoa tàn, nguyệt khuyết, thu úa, lệ dòng...

“Bên ni bờ đá đứng, lệ dòng trôi,

Cánh bèo non héo hắt đường ra khơi…”

Cái tĩnh là mẹ, là người tình mẫu của muôn vật.

 Đá bơ ngơ ủ mộng đứng bên lề, Cầu cũ nhớ một lần qua vĩnh biệt."

(”Tảo mộ lênh đênh” thơ của Trần Đới.)

Nguy nga ở đó, hoằng viễn ở đó. Nhưng trong cõi mê mung này, ai một lần thâm ngộ rằng “mình đã là tượng đá tự bao giờ?” - Từ chữ "tượng" của kinh dịch, từ chữ "atman" của Vệ-đà, từ chữ "dhamma" của Gotama – cõi linh thiêng của mỗi người - từ tượng xuất, tượng sinh, từ tượng hữu! “Hốt hề hoảng hề kỳ trung hữu tượng” (Lão Tử Đạo Đức Kinh.). Trong không có tượng. Vì thế nên Lão Tử cỡi ngược con trâu xanh về rừng. Về rừng là không muôn làm một đám bèo trôi trên sông, không làm một “anh hùng rơm” với thời cuộc, vỗ tay hát ca với phường ma say chén tục…

“Vô bồn ca những chuyện vong tình,

Tương ngộ hỡi, anh hùng tứ chiếng,

Kiếm so tài đoạn tóc mỹ nhân.”

Chàng đã không đoạn được, bây giờ phải đoạn. Trò chơi đó không thể lặp lại nhiều lần. Thời gian qua, tử vong đến, ai thương cho ta tuổi già, tóc bạc? Ôi cái tượng đá thân yêu. Chàng gọi thầm. “Gõ tượng trời vô ngã ca hoang”, chàng lại cười.

Đã mấy lần đầu gối chàng sắp khuỵu xuống, nhưng nhờ nụ cười thầm lặng ấy nó tạo thành một nội lực sung mãn, nó tạo nên ý chí bất khuất nhấc bổng thân xác chàng lên. Ta phải là “con-người-tinh-thần” với đầy đủ tất cả mọi đức tính cao quý và khiêm hư của nó. Chỉ có trang bị bằng cái tinh thần thiêng liêng ấy mới bay lên được với miền cao, mới hội diện được với chân phúc. Còn thân xác là cái nặng nề trì kéo ta ở lại. Đã một lần ở lại rồi. Đã một lần làm đạo sĩ yếu đuối trong câu chuyện Nữ vương khoái lạc. Dù chết, ta cũng không ở lại nữa. Cái chết ấy là cái chết quang vinh, chết cho chân lý, chết cho Thượng đế. Dù chết nhưng tinh thần ta vẫn đến được bên ngài nhờ khát vọng hướng thượng không nguôi đó. Ôi, ý chí của ta còn đây; còn tràn trề sinh lực, nó đang bò rần rật, đang hiện hữu khắp nơi: trong dòng máu, trong tủy, trong xương, cả ngoài làn da, cả trên đầu những sợi tóc. Ôi, ta còn đang giàu có quá!

- Phúc thay cho kẻ nghèo. Chỉ có kẻ nghèo mới vào được nước đức Chúa trời.

Câu kinh của Tân ước, đâu từ trên cao chợt rơi xuống như một gáo nước lạnh dội tắt ý chí chàng. Phải nghèo toàn triệt mới về được với nhất thể. Ta còn giàu ý chí quá. Giàu toàn triệt chính là rỗng không nội tâm. Ý chí chính là khát vọng thành tựu. Nó là tham dụctử vong. Nó tạo ra biến động và chiến tranh đẫm máu thế gian. Ý chí luôn luôn chống đối, xung đột cái hiện thể để hắt cái bóng tối tham dục của nó đến các đối tượng chiếm hữu, ở tha thể.

Nó đóng kín cục bộ các chân lý đối tượng, chân lý ước lệ, chân lý giả định. Ý chí đánh mất tự quy. Là đại ngã mà vong ngã. Ý chí phản bội hiện tính, ôm chữ “da” trong Dasein của Đức triết, ôm vật mà quên tâm, ôm phương mà quên viên trong Trung triết, chạy theo sự sa đọa vật dục của nhị nguyên luận tây phương.

Còn gì nữa không, ý chí? Ngươi đã làm cho con trâu đen rừng rú bản năng thú vật nguyên thủy trong “thập mục ngưu đồ” phải tối tăm, xấu xí. Trên bến cội quê nguồn, có biết rằng “trâu người cùng quên”?

“Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không

Bích thiên liêu quách tín nan thông

Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyệt

Đáo thử phương năng hiệp tổ tông.”

(Thập mục ngưu đồ – Tuệ Sỹ dịch :

Người trâu roi vọt đều không

Trời xanh vời vợi mù trông chốc mòng

Tuyết khoe trắng giữa than hồng

Cội nguồn quê quán tao phùng một phen.).

"Tạn thuộc không" chính là rỗng không, tánh không. Có “tận thuộc không” mới thấy được “trời xanh vời vợi”, mới “tuyết khoe trắng giữa than hồng”, mới “hiệp tổ tông”, mới về được “cội nguồn quê quán”, với nhất thể, bên chân Thượng đế.

Ngộ Không! Tên con chó đen rừng rú nguyên thủy đó nó đã thấy được tên gọi của nó chưa? “Chính danh vô danh tướng” đó chưa? Cái “bản lai diện mục” đó chưa? Ngộ được rồi, ngộ không rồi là có được tất cả. Được ăn, nghĩa là được nhập chúng.

Nghĩ đến đây chàng như một thân chuối đổ, ngã xuống đất. Rồi mê man. Ý chí chàng không kiệt quệ, nhưng đã bị tánh không đánh một đòn cuối cùng, kiệt quệ. Ý chí chàng đã bị cái “chiêu vô chiêu” vô hình, vô ảnh của tánh không vỗ một đòn chí tử và không còn dậy được nữa. Con sư tử bên trong chàng cũng im thin thít luôn.

“Ngay giây phút ấy, thể xác lẫn tinh thần đều vắng bóng nhưng không phải là hoại diệt, là hư vô.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14852)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17777)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18208)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14976)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13173)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21133)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32554)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15296)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12341)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27481)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12132)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34917)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17730)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11804)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12641)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14564)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32451)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19454)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14082)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15311)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14136)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14120)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11951)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53146)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11651)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13917)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13809)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20682)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14309)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13430)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13607)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34153)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16207)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14069)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14196)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13550)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15892)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13500)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27726)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13892)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24935)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13942)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31311)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13859)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15556)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14957)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant