Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 01: Tổng Tự

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 11155)
Chương 01: Tổng Tự

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG I: TỔNG TỰ

Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà, sau khi chết mong được sinh về tịnh độ.

Trong các kinh luận Đại thừa tuy nói mười phương thế giớiHằng sa vô lượng chư Phật, các Đức Phật kia đều an trútịnh độ của các Ngài và giáo hóa chúng sinh ở cõi đó, thế nhưng rất ít đề cập đến các Đức Phật ấy và tịnh độ của các Ngài, chỉ có một vài bộ kinh riêng đề cập đến Phật A-di-đà, Phật A-súc, Phật Dược Sư, trong đó các kinh nói về Đức Phật A-di-đà chiếm đa số. Các kinh này tường thuật nhân vị từ khi bắt đầu phát nguyện tu hành của Đức Phật A-di-đà cho đến sự trang nghiêm của thế giới tịnh độ Cực Lạc ở phương tây. Sự thật này có thể chứng minh tịnh độ của Phật A-di-đà, từ xưa đến nay được chọn làm cõi tiêu biểu cho tịnh độ của chư Phật.

Phật giáo từ Ấn Độ lưu truyền đến nay, các bộ luận nói về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà rất thịnh hành như luận Thập trụ tỳ-bà-sa của ngài Long Thọ, luận Cứu cánh nhất thừa bảo tính của ngài Kiên Tuệ, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá của ngài Thế Thân. Điều này chứng tỏ mục đích của các ngài là có ý nguyện sinh tịnh độ. Kinh Đại bi quyển 2, kinh Đại pháp cổ quyển thượng, kinh Văn-thù-sư-lợi phát nguyện, kinh Đại phương đẳng vô tưởng quyển 6 v.v…nói về tỳ-kheo Kỳ-bà-già, đồng tử dòng Ly-xa tên Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến, Văn-thù-sư-lợi, nữ vương Tăng Trưởng v.v… họ đều thệ nguyện sinh về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà. Mãi đến khi pháp môn Tịnh Độ lưu truyền sang Trung Quốc, người qui hướng rất đông cả tăng lẫn tục đến mấy nghìn vạn người. Lúc đó, pháp môn Tịnh Độ được truyền bá rộng khắp các nước thuộc châu Á và đã trở thành tín ngưỡng thực tiễn của các dân tộc. Vì thế, Tịnh Độ giáo tuy chỉ chung cho giáo lý tịnh độ của chư Phật, nhưng nay y theo nội dung trên, chỉ nói đến các sự kiện lịch sử liên quan đến Đức Phật A-di-đà.

Niên đại có liên quan đến lúc Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc, từ bài tựa của kinh Tứ thập nhị chương cho đến luận Lý hoặc của Mâu Tử, Xuất tam tạng kí tập quyển 2, Lương cao tăng truyện quyển 1 v.v… đều nói vào thời vua Minh Đế, đời Hậu Hán. Ban đêm, vua Minh Đế mộng thấy người vàng, liền sai các quan như Thái Âm v.v… đến Tây Vực cầu pháp. Các vị ấy theo Ca-diếp Ma-đằng v.v… trở về Lạc Dương. Vào giữa niên hiệu Vĩnh Bình, ngài Ma-đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương cho nên Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2 y theo thuyết này mà công nhận niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 (67TL), đời vua Minh Đế, là niên đại Phật giáo mới truyền vào Trung Quốc. Thế nhưng, kinh Tứ thập nhị chương bị cho là do người Trung Quốc ngụy soạn, và còn cho rằng truyền thuyết về ngài Ca-diếp Ma-đằng đến Trung Quốc cũng không có căn cứ đáng tin, những điều này là do người đời sau bịa đặt ra.

Lại nữa, Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2, luận Phá Tà quyển hạ do ngài Pháp Lâm soạn vào đời Đường quyển hạ nói: Vào thời Tần Thỉ Hoàng, có mười tám hiền giả người nước ngoài như sa-môn Thích Lợi Phòng v.v…đem kinh Phật đến để giáo hóa Tần Thỉ Hoàng, ông ta không tin, lại còn bắt họ giam vào ngục, đêm đó có vị thần Kim Cang cao một trượng sáu đến phá ngục đưa họ ra, Tần Thỉ Hoàng sợ hãi, đảnh lễ tạ tội. Việc này ở trong Kinh lục của ngài Thích Đạo An và Chu Sĩ Hành… cũng có ghi. Nhưng quyển Kinh lục của ngài Đạo An đã sớm bị thất lạc, rốt cuộc không biết trong đó ghi lại những gì. Nhưng trong sách Đông tây giao thiệp sử chi nghiên cứu của Đằng Điền Phong Bát nói: điều mục năm thứ 33 của Tần Thỉ Hoàng bổn kỷ trong Sử kí quyển 6 có câu cấm “Bất-đắc tự”. “Bất-đắc” là phiên âm của Buddha (Phật-đà), có nghĩa là cấm thờ cúng Phật. Tần Thỉ Hoàng tín ngưỡng pháp thần tiên là cầu không già, không chết, do đó chán ghét pháp quán vô thường của Phật giáo, nên mới có luận điệu cấm đoán người dân thờ cúng Phật. Một âm Phật-đà mà ngày xưa có người viết là Phù-đồ (浮屠), có người viết là Phù-đồ (浮圖) và có người viết là Phục-đậu, bây giờ nghĩ lại âm viết xưa nhất cho rằng ‘Bất-đắc’ là ‘Phật-đà’ cũng rất có lí. Dựa theo đây mà suy luận, thời Tần Thỉ Hoàng nếu có cấm thờ cúng Phật thì có lẽ trong Kinh lục của ngài Đạo An có viết về việc này.

Niên hiệu Tần Thỉ Hoàng thứ 33 (214 trước CN), sau năm thứ 18 tại vị của vua A-dục ở Ấn Độ (237 trước CN) 23 năm, lúc đó vua A-dục phái các sư đến các vùng Kiện-đà-la (Gandhāra) và Đại Hạ (Bactria) để truyền đạo. Vì thế, ngay lúc truyền đạo từ các địa phương ấy rồi lại tiến triển đến lãnh thổ Trung Quốc, không phải không có khả năng ấy, nhưng sau đó do bị ngăn cấm, không thể phiên dịch kinh điển được nên chưa thể cho đây là khởi nguyên của Phật giáo du nhập vào Trung Quốc.

Phật giáo đầu tiên được truyền vào Trung Quốc đại khái là trước thời vua Ai Đế, Tiền Hán. Chú thích Ô Hoàn Tiên Ty Đông Di truyện trong Tam Quốc Chí – Ngụy Thư quyển 30, dẫn dụng Ngụy Lược của Ngư Hoạn ghi chép là vào Nguyên Thọ nguyên niên, đời vua Ai Đế, thời Tiền Hán (năm thứ 2 trước CN) có Bác sĩ đệ tử[1] tên Cảnh Lô thụ nhận kinh Phật bằng cách truyền miệng từ sứ của vua nước Nhục-chi tên là Y Tồn. Kinh Phật này rốt cuộc là kinh gì, tuy chưa có nói rõ nhưng chính là kinh Phật trong Ngụy Lược đã đề cập đến, nói rõ ngày đản sinh của Thích Tôn và những việc về cha mẹ Ngài, đại khái là có liên quan với truyện của Phật trong kinh Tu hành bản khởi. Tóm lại, đây là nói khoảng năm thứ 2 trước công nguyên, sứ của vua nước Nhục-chi đã đem kinh Phật truyền miệng lại cho các học giả Trung Quốc, đây tức là thuyết nói về truyền nhập đầu tiên của Phật giáo vào Trung Quốc.

Sau đó, đầu niên hiệu Kiến Quốc thời Vương Mãng (9 TL), bởi vì đường giao thông với Tây Vực bị cắt đứt, tạm thời kinh Phật truyền vào phía đông cũng dứt giữa chừng, mãi đến thời Hậu Hán mới khôi phục lại đường giao thông giữa hai nước thì Phật giáo cũng tiếp tục lần lượt truyền đến. Tây Vực truyện trong Hậu Hán thư quyển 78, có ghi: Sở Vương Anh bắt đầu tin Phật giáo, Trung Quốc nhờ đây có nhiều người phụng thờ Phật. Lại nữa, cũng trong Hậu Hán thư quyển 78, truyện thứ 32 trong Tứ thập nhị liệt truyện, Quan Vũ thập vương liệt truyện ghi: Khi nhỏ, Sở Vương Anh thích làm hiệp sĩ, giao tiếp nhiều bạn bè, về già ông lại thích đạo Hoàng Lão, học làm Phật, giữ trai giới, cúng tế. Niên hiệu Vĩnh Bình thứ 8 (65TL), vua hạ chiếu trong thiên hạ tất cả những kẻ bị tội chết đều dùng lụa chuộc tội. Sở Vương Anh sai quan Lang Trung Lệnh đem ba mươi cuộn lụa vàng và lụa mịn trắng đến phủ Quốc tướng, nói: “Xin ngài giúp đỡ, tôi tội lỗi quá nhiều xin ngài vui vẻ ban đại ân mà nhận số lụa trắng dâng tặng này để tôi chuộc tội lỗi”. Quốc tướng nghe tâu, nói rằng: “Sở Vương Anh tụng đọc lời vi diệu của đạo Hoàng Lão, nhưng vẫn kính chuộng chùa tháp thờ Phật, trai giới ba tháng, nguyện với thần linh mà còn trách gì, nghi gì nữa? Nếu ta nhận thì sẽ có tai họa, thôi hãy đem thứ này về giúp cho y-bồ-tắc[2] lo cúng dường tang-môn[3].

Căn cứ những điều đã ghi ở trên thì Sở Vương Anh ở trước năm thứ 8 niên hiệu Vĩnh Bình thời vua Minh Đế, ông đã qui y Phật giáo, thành ưu-bà-tắc đã biết trai giới, cúng tế. Nếu như vậy thì trước niên hiệu Vĩnh Bình đã có đạo Phật lưu hànhTrung Quốc, sau đó Minh Đế (67TL) mộng thấy người vàng mới biết người ấy là Phật, bèn sai sứ đi Tây Vực cầu pháp. Điều này xét ra chẳng phải hoàn toàn trái với sự kiện lịch sử.

Niên hiệu Quang Hòa thứ 2 (179TL), đời vua Linh Đế, thời Hậu Hán, Chi Sấm đã dịch ra kinh Bát-chu tam-muội là sự mở đầu của Tịnh Độ giáo truyền đến Trung Quốc. Tiếp đến có Chi Khiêm ở nước Ngô, Trúc Pháp Hộ ở Tây Tấn v.v… dịch kinh A-di-đà, kinh Bình đẳng giác. Cưu-ma-la-thập thời vua Diêu Tần, Bảo Vân cùng với Khương Lương Da-xá v.v… thời Lưu Tống dịch kinh A-di-đà, luận Thập trụ tỳ-bà-sa, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… như thế lần lượt các kinh thuộc Tịnh Độ liên tiếp được dịch ra khiến hàng xuất giatại gia dần dần sinh lòng tin kính, phụng hành. Người đầu tiên phát nguyện cầu sinh Tây phương là ông Khuyết Công Tắc thời Tây Tấn, sau đó rất nhiều người nối tiếp nhau phát nguyện vãng sinh liên tục không ngừng. Trong số đó, người nổi tiếng nhất là đại sư Huệ Viễn thời Đông Tấn, ở phía nam Lô sơn, ngài kết Bạch Liên xã cùng với mọi người chuyên tu pháp môn Niệm Phật tam-muội, chủ yếu là y theo kinh Bát-chu tam-muội, lấy thấy Phật vãng sinh làm mục tiêu chính yếu, thành ra dòng tu chủ yếu của Tịnh độ giáo ở Trung Quốc.

Thời Lưu Tống về sau, tín ngưỡng Tịnh độ dần dần được truyền bá ở các nơi, việc giảng nói các kinh Vô Lượng Thọ v.v… được phổ biến rộng rãi, tượng Đức Phật A-di-đà cũng liên tiếp được tạo lập. Thời Tuyên Vũ Đế, triều Bắc Ngụy có Bồ-đề-lưu-chi dịch Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá, tiếp đến ngài Đàm Loan chú giải, đều y theo hai đạo dị hànhnan hành của luận Thập trụ tì-bà-sa, chủ trương tha lực, bản nguyện, bắt đầu làm sáng tỏ nghĩa chính của sự lập giáo Tịnh Độ tông. Vùng phía bắc Tinh Châu là trung tâm có rất nhiều người phát nguyện cầu vãng sinh. Đến thời Bắc Chu và Tùy thì việc nghiên cứu kinh văn thịnh hành, có các ngài như Huệ Viễn (Tịnh Ảnh), Linh Dụ, Cát Tạng, Pháp Thường trứ tác các sớ về các kinh Vô Lượng ThọQuán kinh v.v… Lại có các ngài như Trí Khải, Đạo Cơ, Trí Nghiễm, Ca Tài, mỗi vị đều viết sách luận thuyết về thân Phật, tịnh độ v.v… lộ rõ cảnh tượng hoa lan, hoa cúc khoe sắc. Đương thời, Địa luậncho đến các học phái khác, phần nhiều cũng có khuynh hướng tín ngưỡng Di-đà. Nhưng các sư trong học phái Nhiếp Luận cho rằng thuyết phàm phu vãng sinh trong Quán Kinh là “Biệt thời ý”nghĩa là hiện đời này không thể vãng sinh được, làm cho sự hoằng hóa của Tịnh Độ bị không ít trở ngại.

Đến đời Đường, các ngài Đạo Xước, Thiện Đạo… xuất thế kế thừa giáo nghĩa của ngài Đàm Loan, các ngài cực lực nhấn mạnh bản nguyện lực của Phật, cổ súy tư tưởng mạt pháp và nói về sự trọng yếu của thời giáo tương ưng. Đặc biệt là ngài Thiện Đạo khí khái làm mẫu mực cho xưa nay, soạn Quán kinh sớ để đả phá lập nghĩa của chư sư, củng cố cơ sở giáo nghĩa độc lập của Tịnh Độ. Pháp NhiênNhật Bản tin nhận thuyết này, khởi xướng Tịnh Độ tông cho đến ngày nay, các học giả Nhật Bản y theo chủ trương ấy phát huy đến cùng tận. Đương thời ở Trường An có các ngài Trí Thủ, Tịnh Mại, Huệ Tịnh, Viên Trắc, Đạo Huệ, Đạo Ngân, Hoài Cảm… đều viết sớ giải thích các kinh A-di-đà, Quán kinh… Lại nữa, ở nước Tân La cũng có các sư Từ Tạng, Nguyên Hiểu, Nghĩa Tương, Pháp Vị, Huyền Nhất, Cảnh Hưng, Nghĩa Tịch, Thái Hiền, Độn Luân… đều trước tác kinh sớ, cho nên sự nghiên cứu kinh văn về Tịnh Độ đạt đến cao trào, đây là chịu ảnh hưởng của sự bộc phát giáo học đầu đời Đường

Đầu niên hiệu Khai Nguyên, khi ngài Huệ Nhật từ Ấn Độ trở về nước, các thiền sư thời ấy cho rằng thuyết Tịnh Độ chẳng qua là phương tiện giả tạm để hướng dẫn người ngu. Ngài Huệ Nhật đối với việc này kịch liệt phản kích, đề xướng yếu nghĩa niệm Phật vãng sinh, tự thành lập một phái. Sau đó, có các ngài Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Phi Tích…kế thừa thuyết ấy, cho pháp niệm Phật tam-muội là pháp vô thượng thâm diệu của thiền môn, cũng không ngớt lời bài xích bụng rỗng tâm cao của đệ tử nhà thiền. Bấy giờ trong số các thiền sư cũng có người đồng tình với việc này như ngài Tuyên Thập đệ tử của ngài Ngũ Tổ, đề xướng Nam Sơn Niệm Phật Thiền, ngài Huệ Trung ở Nam Dương, đệ tử của ngài Lục Tổ cũng đề xướng Hành giải kiêm tu, cho đến cháu đích tôn của ngài Pháp Nhãn là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ lại nói lý Không hữu tương thành, đồng thời tích cực cổ súy yếu môn Thiền Tịnh song tu, tự thành một thiền phong. Thậm chí các ngài Thiên Y Nghĩa Hoài, Huệ Lâm Tông Bản, Cô Tô Thủ Nột, Trường Lô Tông Trách, Hoàng Long Tử Tâm, Chân Yết Thanh Liễu… cũng đều tu Tịnh độ. Lại có các cư sĩ Dương Kiệt, Vương Cổ, Giang Công Vọng, Vương Điền, Vương Nhật Hưu… đều thiền tịnh song tu và đều có thể nói đó là những người kế thừa di phong ấy.

Tông Thiên Thai cũng có nhiều người tin tu pháp môn Tịnh Độ và sớ giải các kinh Tịnh Độ. Trong số đó, vào đời Tống có các vị Hành Tịnh, Trừng Vực, Nghĩa Thông, Nguyên Thanh, Văn Bị, Tuân Thức, Tri Lễ, Trí Viên, Nhân Nhạc, Tòng Nghĩa, Trạch Anh, Tông Hiểu… nối tiếp nhau trứ tác Quán kinh sớ, A-di-đà kinh sớ, đồng thời biên soạn các sách nói rõ về giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, Quán kinh sớ diệu tông sao của Tứ Minh Tri Lễnổi tiếng nhất, chủ trương dùng tâm quán Phật, là một bộ luận dung hợp hai tông Thiên ThaiTịnh Độ, được tông Thiên Thai xưa nay coi trọng. Tiếp theo có ngài Nguyên ChiếuDư Hàng dựa vào Nam Sơn Luật để phu diễn Tịnh Độ giáo nên trứ tác Quán kinh sớ v.v…thành thuyết của một nhà. Môn nhân Dụng Khâm, Giới Độ v.v… cũng đều trứ tác chú sớ, noi theo học thuyết của thầy, sau đến thời đại Nam Tống, do Tuấn Nãi truyền vào Nhật Bản. Những vị này đều đáng được gọi là những người phục hưng Tịnh Độ giáo học thời Tống.

Lại nữa, đương thời phong trào Kết xã niệm Phật được lưu hành ở phương nam, có các vị Tĩnh Thường, Tuân Thức, Tri Lễ, Mộc Như, Linh Chiếu, Tông Trách, Đạo Thâm đều lãnh đạo kẻ tăng người tục kết xã, chuyên tu niệm Phật. Đây là xa thì chấn hưng di phong của Bạch Liên xãLô sơn, gần thì bước theo dấu chân tốt đẹp của ngài Thiện Đạo, Pháp Chiếu. Đầu thời Nam Tống có Từ Chiếu Tử Nguyên đề xướng Bạch Liên tông. Kế đến có ngài Phổ ĐộLô sơn kế thừa ngài Từ Chiếu và trứ tác Liên tông bảo giám.

Từ thời nhà Nguyên trở về sau, phong trào Thiền Tịnh song tu lại càng lưu hành, các vị đại lão như Trung Phong Minh Bản, Thiên Như Duy Tắc, Sở Thạch Phạm Kỳ, Đoạn Vân Trí Triệt đều hướng tâm về Tây phương. Lại có các vị Trạm Đường Tính Trừng, Ngọc Cương Mông Nhuận, Ngân Giang Diệu Hiệp, Vân Ốc Thiện Trụ… cũng đều tán dương Tịnh Độ. Đến đời Minh có Sơ Sơn Thiệu Kỳ, Không Cốc Cảnh Long, Cổ Âm Tịnh Cầm, Nhất Nguyên Tông Bản, Vân Thê Châu Hoằng, Tử Bá Chân Khả, Hám Sơn Đức Thanh, Bác Sơn Nguyên Lai, Trạm Nhiên Viên Trừng, Cổ Sơn Nguyên Hiền, Vi Lâm Đạo Bái… nối tiếp nhau khởi xướng Thiền Tịnh hợp hành. Trong đó, ngài Châu Hoằngnổi tiếng nhất. Vào niên hiệu Long Khánh, ngài chọn núi Vân Thê, tỉnh Hàng Châu, để chuyên tu Niệm Phật tam-muội, chú giải kinh A-di-đà và viết sách cổ súy tông chỉ Thiền Tịnh nhất trí, về sau ngài cảm hóa rất rộng khắp trong giới học kinh giáo. Tông Thiên Thai có các ngài Vô Ngại Phổ Trí, Diên Khánh Đạo Diễn, Cự Am Đại Hựu, U Khê Truyền Đăng, Linh Phong Trí Húc, Cổ Hấp Thành Thời… đều soạn sách làm sáng tỏ giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, ngài Trí Húc trứ tác Tam học nhất nguyên luận, chủ trương ba tông Thiền-Giáo-Luật như ba chân của chiếc đỉnh, không nên bài xích lẫn nhau và chỗ qui nạp của tam học tức là pháp môn Tịnh Độ. Bấy giờ, có các cư sĩ Viên Hoành Đạo, Trang Quảng Hoàn đều viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Đến thời nhà Thanh, tín ngưỡng Tịnh độ phần nhiều do cư sĩ cổ súy, giữa niên hiệu Khang Hy, có các vị Chu Khắc Phục, Du Hành Mẫn, Chu Mộng Nhan…đều có soạn sách khuyên người tu tịnh nghiệp. Giữa niên hiệu Càn Long, có các vị Bành Thiệu Thăng, Bành Hy Tốc… biên tập Vãng sinh truyện, đặc biệtBành Thiệu Thăng viết rất nhiều sách ca ngợi Tây phương, nỗ lực hoằng truyền Tịnh Độ giáo. Cuối niên hiệu Khang Hy, có Thật Hiền Tư Tề tiếp nối di phong của ngài Châu Hoằng, ở Hàng Châu ngài kết Liêngiáo hóa xa gần, mọi người đều cho rằng ngài là Vĩnh Minh tái sinh, được mọi người khâm phục và kính ngưỡng. Vào đời Khang Hy, Càn Long cũng có các vị như Hành Sách, Tục Pháp, Minh Hoằng, Minh Đức, Tề Năng, Phật An, Thật Thành, Tế Tỉnh… các ngài đều chuyên tu tịnh nghiệp. Về sau, có các vị Thụy Chương, Hồ Đĩnh…lại tiếp tục soạn Vãng sinh truyện. Tiếp đó có ngài Đạt Mặc, Ngộ Khai; cư sĩ có Trương Sư Thành, Chân Ích Nguyện… cũng viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Từ thời Tống trở về sau, Tịnh Độ giáo, đa phần lưu hành ở phía nam vùng Giang Nam, Chiết Giang. Đến thời nhà Thanh, lấy Bắc Kinh làm thủ đô, tin thờ Lạt-ma giáo, nên tín ngưỡng Tịnh Độ vào thời này hầu như bị hạn cuộc chỉ một vùng ở phương nam. Lại nữa, từ thời Minh về sau, nói chung, sinh khí của Phật giáo suy tàn, vì thế không ai có một chút sáng kiến riêng, nếu có viết sách Tịnh Độ thì chẳng qua cũng sao chép những pháp ngữ của người xưa mà thôi. Khi sắp bước sang thời Dân Quốc thì Phật giáo cũng hơi có chút khởi sắc trở lại, nhưng lại theo sự biến động của thời cuộc mà phải chịu ảnh hưởng quá lớn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34432)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16894)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23012)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13076)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22015)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22255)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14894)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23644)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24187)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23731)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17181)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19399)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27128)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14445)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13871)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22733)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14795)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17398)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12708)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13903)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10442)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14740)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17227)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12582)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12753)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10394)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28744)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10733)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11161)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16911)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15802)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13362)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12590)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11408)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13059)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19349)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12292)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28689)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10085)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21622)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12823)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17863)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26330)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11740)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10880)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22812)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12084)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10631)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11431)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11551)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant