Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 08: Thuận hạnh và nghịch hạnh

13 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10107)
Chương 08: Thuận hạnh và nghịch hạnh

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 8
Thuận hạnh và nghịch hạnh


Chúng ta đọc trong kinh Đại thừa thường thấy các Bồ-tát thị hiệnthế gian có nhiều hạnh không giống nhau. Có vị thị hiện tùy thuận hạnh pháp tính thì chẳng có vấn đề gì để nói, chúng ta không nghi ngờ và rất tôn trọng, làm theo lời các ngài dạy. Nhưng cũng có vị thị hiện tùy thuận nghịch hạnh làm cho chúng ta khó mà phân biệt được. Điều này chúng ta không thể không lưu ý.

Bồ-tát thị hiện nghịch hạnh như phá giới, cố ý làm những việc tội ác. Các ngài thị hiện nhất địnhnhân duyên đặc biệt để độ một số đối tượng đặc biệt không phải khinh suất tùy tiện thị hiện ở trong đám người bình thường; nếu như chúng ta muốn biết rõ việc này thì cần phảitrí tuệ.

Những vị Bồ-tát thị hiện này từ xưa đến nay, chúng ta thường nghe nói đến; nếu có cơ duyên cũng có thể gặp được. Liên quan đến điều này, Đức Phật có dạy đặc biệt cho những trường hợp này. Ngài nêu ra thí dụ như trong kinh Hoa nghiêm, đồng tử Thiện Tài tham học với năm mươi ba vị Bồ-tát thì thấy có những vị tùy thuận phiền não. Những Bồ-tát này, Đức Phật gọi là Bồ-tát Huệ hạnh, chẳng phải bồ-tát Sơ học. Bồ-tát Sơ học không có năng lực như thế. Vì sao? Vì bồ-tát Sơ học chưa đoạn hết tập khí tham, sân, si, mạn. Nếu như chúng ta tạo các ác nghiệp thì nhất định đọa trong ba đường ác.

Bồ-tát Huệ hạnh là người như thế nào? Trong kinh Kim cang nói Bồ-tát phá bốn tướng là ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, và bốn kiến là ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiếnthọ giả kiến, Bồ-tát hoàn toàn đoạn sạch. Đây là người như thế nào? Trong kinh Đại thừa thường nói là pháp thân Đại sĩ, không giống người bình thường. Bồ-tát thị hiện các loại ác hạnh, nhưng trong tâm các ngài không có, vì độ chúng sinh nên các ngài khai mở cửa phương tiện, chẳng chút vướng bận. Tâm của các ngài thanh tịnh, chân thật không dính chút bụi trần nên các ngài mới có bản lĩnh như thế.

Phần đông người Trung Quốc đều biết xưa kiatrưởng lão Tế Công. Chúng ta thấy ngài hành trì như người không giữ giới luật, cũng không giữ thanh quy chốn thiền môn; đặc biệt lại thích ăn thịt chó. Sự thậttrưởng lão Tế Công này nhưng không giống nhân vật viết trong tiểu thuyết, tiểu thuyết viết không chịu trách nhiệm. Vậy ngài có làm những việc như thế không? Có. Trong Cao tăng truyện có ghi chép sự thực. Ngài ăn thịt chó, uống rượu. Truyện Tế Công trong Cao tăng truyện rất dài, dài hơn truyện ký của pháp sư khác hình như có bốn, năm quyển, đó là sự thật, không phải tiểu thuyết; ghi chép lại sự thật cuộc sống của ngài. Ngài là A-la-hán ứng hóa, chẳng phải người phàm.

Đối tượng ngài độ là những chúng sinh mà các vị giữ quy củ trì giới, giảng kinh, niệm Phật không độ nổi. Ngài thành tựu vô lượng công đức, tâm ngài thanh tịnh chẳng bị phiền não trói buộc, ngài có bản lĩnh như vậy. Người như ngài, chúng ta học không được mà chỉ khâm phục, cung kính, ca ngợi. Nếu như chúng ta học theo ngài sẽ bị đọa vào ba đường ác, ngài không chịu trách nhiệm.

Thời cận đại, năm đầu Dân Quốc cũng xuất hiện một vị giống như trưởng lão Tế Công, đó là pháp sư Diệu Thiện ở chùa Kim Sơn, Trấn Giang, Giang Tô. Mọi người gọi là “Phật sống Kim Sơn”. Hành động của pháp sư giống như ngài Tế Công đời Tống, sự thị hiện này là nghịch hạnh. Chúng ta thấy ngài từ sáng đến tối chẳng có khóa tụng nào, xưa nay chẳng đọc kinh, cũng không tụng giới; suốt ngày, ngài chơi đùa cùng với nam, nữ cư sĩ, cùng ăn uống với họ. Việc gì cũng không màng đến.

Nhưng ngài khiến cho mọi người rất khâm phục, họ tôn xưng ngài là Phật sống và rất cung kính. Ngài mặc y phục mỏng manh, bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều chỉ mặc một bộ đồ; mùa đông không thấy lạnh; mùa hè không cũng thấy nóng, thật là kì lạ. Y phục của ngài cũng không giặt, cả đời chưa hề tắm giặt một lần, nhưng thân thể ngài vẫn không hôi, lại còn tỏa ra mùi thơm; đây không phải là người bình thường. Chúng ta học không được, đó là sự thật.

Xã hội ngày nay, có rất nhiều người mạo nhận mình là thánh nhân. Họ cũng không câu không thúc, nhưng bạn nhìn kỹ mùa đông họ có mặc áo len không? Nếu như mùa đông họ mặc y phục mỏng manh thì nhất địnhthánh nhân thật; còn nếu mùa đông họ mặc áo len, e rằng không phải thánh nhân thật. Mùa hè họ có mặc áo len được không? Ăn uống có còn phân biệt không? Không phân biệt ngon, dở, sạch, dơ tất cả đều ăn mới là thánh nhân. Nếu như họ không có đủ những điều này thì họ mạo xưng rồi. Những người như vậy, chúng ta phải cẩn thận thì học Phật không bị họ lừa gạt.

Hình thức lừa gạt người rất nhiều, họ dùng lời nói để gạt người, viết thành sách cũng gạt được người; cho nên chúng ta phải cẩn thận. Thời đại ngày nay, ngôn luận tự do, xuất bản tự do, chẳng có hạn chế, không giống như trước đây. Chúng ta thấy thời đại trước đời Thanh, chúng ta muốn xuất bản sách trong Phật giáo phải qua xét duyệt của quốc gia, không phải chúng ta tùy tiện lưu hành. Bậc cao tăng, đại đức thời đó xét duyệt không có vấn đề gì, mới dâng lên vua phê chuẩn; sau đó mới được in ấn lưu hành, không giống như ngày nay tự do in ấn.

Tự do có cái lợi của nó, nhưng bất lợi thì nhiều hơn, tà tri, tà kiến tràn ngập xã hội; nếu người không có trí tuệ hiểu rộng thì dễ bị họ mê hoặc; đây là khuyết điểm của tự do dân chủ. Ngày xưa, thời đại phong kiến, nhà vua thật sự bảo vệ tâm thanh tịnh cho nhân dân, bảo vệ bạn không bị ô nhiễm. Vua có trách nhiệm và sứ mệnh này.

Thời xưaTrung Quốc, những người làm quan chính vụ, cũng như chức thủ trưởng hành chính ngày nay; hoặc là huyện thị trưởng ở địa phương, họ cũng tuân thủ ba điều răn “làm vua, làm cha mẹ và làm thầy”. Đây chính là trách nhiệm và sứ mệnh của người làm quan chính vụ.

Vua là lãnh đạo nhân dân, còn người làm quan huyện, thị trưởng thì phải lãnh đạo dân chúng ở huyện thị của mình.

Quan làm cha mẹ là người làm quan phải đem tâm của bậc làm cha mẹquan tâm dân chúng, nên gọi là “cha mẹ của dân”. Quan như cha mẹ, quan phải giúp cho nhân dân, làm cho cuộc sống của họ được tốt hơn.

Quan làm thầy giáo là quan phải hướng dẫn, giáo dục mọi người. Cho nên ba ba sứ mệnh này của quan chính vụ là vua, cha mẹ và thầy.

Ngày nay thời đại dân chủ không đề cập đến ba điều này. Thời đại dân chủ gọi quan chính vụ là đầy tớ của nhân dân. Bạn là người chủ, tôi là người đầy tớ. Bạn muốn tôi làm thế nào thì tôi làm thế ấy. Chúng ta nghĩ thử xem, quan chính vụ phải làm cha mẹ của chúng ta thì tốt hơn? Hay làm đầy tớ thì tốt hơn? Cha mẹ quan tâm chúng ta tỉ mỉ chu đáo. Người giúp việc trong nhà bạn, chưa chắc gì chăm sóc bạn tốt. Cho nên có nhiều người hỏi tôi: “Pháp sư! Thầy tán thành thời đại dân chủ, hay chế độ phong kiến?”. Tôi nói tán thành chế độ phong kiến, không tán thành thời đại dân chủ. Tôi biết cái hay, ưu điểm của chế độ phong kiến hơn dân chủ nhiều mà điều tệ hại cũng ít hơn dân chủ. Nếu như các vị đọc kỹ lịch sử thì hiểu rõ, không còn cho rằng làm vua là được tự tư. Tôi nói thật, tự tư là cái hay của nhà vua; ở đâu vua cũng chú ý, chỗ nào vua cũng quan tâm cẩn thận lo cho dân được lợi ích; nếu như lơ là thì nhân dân sẽ nổi lên lật đổ nhà vua. Vì thế, vua phải nghĩ cách làm cho nhân dân ủng hộ. Ông ta phải làm một ông vua tốt thật sự lo cho đất nước, phục vụ nhân dân thì nhân dân mới ủng hộ, nhà vua mới có thể truyền ngôi nhiều đời, hay mười mấy đời, truyền mấy trăm năm; cho nên chế độ phong kiến không phải không có cái hay. Ngày nay nhiệm kỳ tổng thống là bốn năm, tôi cảm thấy không có trách nhiệm bằng vua.

Nói về bồ-tát Sơ học, Đức Phật răn dạy Bồ-tát Sơ học, chúng ta đều là Bồ-tát Sơ học, việc quan trọng thứ nhất là phải biết tai họa của danh lợi, tuyệt đối không được đắm nhiễm. Nhưng danh lợi rất dễ mê hoặc người, có bao nhiêu người xả bỏ nó được? Nếu như chúng ta không quay đầu lại được mà muốn đời này thành tựu thì rất khó.

Đức Phật dạy mọi người ít muốn, biết đủ; người ít ham muốn thì dễ biết đủ. Khi Đức Phật còn tại thế, mỗi ngày Ngài chỉ dùng vào bữa trưa. Chúng ta ngày ăn ba bữa no nê, mặc y phục ấm áp, có nhà ở để che mưa gió, đời sống vật chất đầy đủ, ít lo lắng, chuyên tâm tu đạo. Nếu như ham muốn lợi dưỡng nhiều thì nhất định tăng trưởng tâm tham, sân, si, mạn, nghi; tăng trưởng phiền não thì mất chánh niệm.

Đức Phật dạy tất cả thiện pháp, chẳng những chúng ta không làm được, thậm chí những ý nghĩa này chúng ta cũng không hiểu. Ngài dạy ruộng phước thù thắng, chúng ta không thể không hiểu. Ruộng phước thù thắng chính là tam học (giới, định, tuệ), sáu độ là bố thí, trì giới v.v…, và mười đại nguyện vương của bồ-tát Phổ Hiền. Tuy chúng ta nói được, nhưng trên thực tế chúng ta còn đang xem thường lời Phật dạy, không muốn làm, tự mình khởi tâm động niệm, làm việc gì đều tương ứng với ma. Như thế làm sao thành tựu được? Cho nên Phật dạy bồ-tát Sơ học, nhất định phải xa lìa danh lợi.

Giảng đến đây, tôi chợt nhớ đến đại sư Liên Trì. Đại sư là một trong bốn Đại sư ở cuối đời Minh, chấn hưng Phật pháp rất mạnh mẽ. Người đời sau, mỗi khi nhắc đến đại sư Liên Trì không ai mà không tôn kính, ngưỡng mộ. Chính Đại sư kể lại: Lúc còn rất trẻ, Đại sư tham học khắp nơi rất ngưỡng mộ một vị cao tăng lúc đó là Lão hòa thượng Biến Dung. Đại sư cung kính chí thành đi ba bước lạy một lạy, lạy đến trước mặt Hòa thượng, chí thành như thế mới thỉnh cầu được Lão hòa thượng chỉ dạy. Ngài dạy Đại sư chỉ một câu: “Ông hãy nhớ kỹ đừng để bị danh lợi làm hại”. Hòa thượng dạy xong thì bảo Đại sư đi. Thính chúng ở bên cạnh thấy như vậy đều cười, cho rằng Đại sư từ xa đi ba bước lạy một lạy đến đây, nhất định Lão hòa thượng khai thị diệu pháp; nhưng khi đến chỉ nghe nói có một câu.

Đại sư Liên Trì chí thành, cung kính tiếp nhận lời dạy. Đại sư nói với mọi người: “Lão hòa thượng đáng được mọi người tôn kính”. Đây là lời nói thật, không phải lời nói nịnh hót, lừa gạt kẻ hậu học. Từ đó, Đại sư tuân theo suốt đời. Đại sư thành tựu kết quả là nhờ câu nói cảnh tỉnh của Lão hòa thượng, cả đời tránh xa danh lợi.

Lão hòa thượng Biến Dung nói phù hợp với lời Đức Phật chỉ dạy người sơ học. Những điều này, trên đây tôi đã nói qua: “Tương ứng với lợi ích, tương ứng với pháp và tương ứng với đoạn trừ phiền não, tương ứng với đại niết-bàn”. Người như thế là thật sự thiện tri thức.

Một người ít muốn, biết đủ, có rất nhiều lợi ích, rõ ràng nhất là họ bớt được nhiều lỗi lầm. Chúng ta biết chẳng những là người thế gian mà ngay cả hàng xuất giatại gia trong đạo Phật cũng phạm lầm lỗi rất nhiều. Từ đâu sinh ra? Từ tham dục sinh ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34402)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16885)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22993)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13070)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21992)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22236)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14886)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24158)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23685)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17168)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19387)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27110)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14438)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13864)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22712)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14778)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17387)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12699)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13893)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10429)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14729)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17222)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12573)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12744)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10389)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28738)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11153)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16905)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15797)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12572)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11394)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19334)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12284)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28662)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10070)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21595)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17854)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26301)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11728)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10873)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22785)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12070)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10622)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11426)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11549)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant