Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo

14 Tháng Chín 201300:00(Xem: 11565)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo

Tổng Tập Văn Học

Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo


Nhiều tác giả


tong-tap-van-hoc-phat-giao1 tong-tap-van-hoc-phat-giao2

LỜI ĐẦU SÁCH

  

Kính thưa quý văn thi hữu và bạn đọc,

Cuối cùng bộ sách này cũng đã đến tay quí vị sau gần 3 năm kêu gọi, liên lạc, thu thập bài vở, tìm tài liệu, soạn viết, hiệu đính, sắp xếp và trình bày, rồi lên khuôn.

Dù trải thời gian khá lâu để hoàn tất, tuyển tập này vẫn chưa đáp ứng được những gì nhóm chủ trương đề ra lúc ban đầu; như thế, tất nhiên cũng không thể thỏa đáng lòng mong đợi của quý vị cho một thiên sưu khảo văn học Phật giáo Việt Nam Hải Ngoại đúng như tên gọi của nó.

Ngoài vấn đề chậm trễ về thời gian và kỹ thuật, có vài lý do khiến tuyển tập chưa được sự tham gia đầy đủ của văn thi hữu Phật giáo:

1) Hiểu lầm về mẫu đề nghị của chúng tôi cho phần tiểu sử: Trong phần này, chúng tôi đề nghị quý văn thi hữu cho biết tác phẩm, dịch phẩm đã xuất bản, năm xuất bản. Một số quý vị nghĩ rằng mình chưa có tác phẩm xuất bản nên không tham gia gửi bài. Thực ra, chúng tôi không chủ trương chỉ đón nhận những vị có tác phẩm xuất bản, mà trọng yếu là có đóng góp, có sinh hoạt văn học liên quan đến Phật giáo, ở bất kỳ thể tài nào trên báo chí hoặc websites;

2) Sự đinh ninh của văn thi hữu đối với thông báo số 2 (do chúng tôi phổ biến ngày 17 tháng 12 năm 2006) và thông báo số 3 (ngày 10 tháng 4 năm 2007): Ở hai thông báo này, chúng tôi lạc quan trình bày cùng quý vị rằng đã sưu tập sơ khởi ít nhất 260 tác/dịch giả Phật giáo có thể được đưa vào tuyển tập. Thực ra danh sách này chỉ là đề nghị và cũng hàm ý thỉnh mời, chứ không phải là chung quyết. Nhưng một số quý vị có thể ngộ nhận rằng tên mình có trong danh sách có nghĩa là nhóm chủ trương sẽ tự lo phần biên soạn/sưu tầm tiểu sử, hình ảnh và bài viết của mình, nên chỉ chờ đợi ngày tuyển tập ra mắt; trong khi đó, chúng tôi cũng đang trông mong sự hồi đáp chính thức bằng cách gửi bài và tiểu sử do chính quý vị tự chọn;

3) Trong danh sách các tác giả và dịch giả do chúng tôi đề nghị, có một số vị vì thấy tên của người khác không thuận hợp với mình về quan điểm cá nhân, tổ chức hoặc lập trường nào đó, đã ngần ngại tham gia. Thực ra đây là vuông chiếu văn học Phật giáo, trân trọng sưu tập tất cả những đóng góp tinh thần của người con Phật Việt Nam tại hải ngoại, mà chúng tôi xem như là một thứ văn khố lưu trữ tài liệu cho những nhà nghiên cứu văn học sử Phật Giáo Việt Nam và cũng để cho thấy những thành quả trong lãnh vực văn họcchư tăng, ni và văn nghệphật tử đã đóng góp trong suốt ba mươi mấy năm qua;

4) Liên quan vấn đề quan điểm, lập trường, theo cố vấn của một số vị đã từng thực hiện các tuyển tập văn học, chúng tôi không nên tự tiện trích đăng bài vở và tiểu sử của quý văn thi hữu, dù rằng trong số ấy có nhiều tác giảtác phẩm quá phổ thông, có thể tìm thấy dễ dàng trên nhiều trang lưới điện toán. Đây là cách để tránh những phiền phức về mặt tác quyền, hoặc những câu nệ vượt ngoài thiên chức sáng đẹp của văn họcPhật giáo.

Từ những lý do kể trên, chúng tôi đã rút bớt hơn phân nửa danh sách đề nghị ban đầu, và với từng bước cân nhắc, chỉ giới thiệu nơi đây các tác giả có gửi bài, hình ảnhtiểu sử đến chúng tôi, hoặc đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng tài liệu. Và cũng vì những điều kiện giới hạn đã nói, tuyển tập này chỉ được xem như là bộ I, là bước khởi đầu trong đề án sưu khảo văn học Phật giáo của chúng tôi. Có nghĩa rằng, chúng tôi vẫn tiếp tục thỉnh cầu sự cọng tác của quý văn thi hữu khắp nơi để các bộ II, III hoặc xa hơn nữa, được nối tiếp hình thành để chúng ta cùng ghi dấu những đóng góp trí tuệsáng tạo của người con Phật trong văn học sử Phật Việt ngoài nước. 

Về nội dung, tuyển tập được mở đầu với bài “Tổng Luận về Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại” của Huỳnh Kim Quang: trình bày tổng quát về sinh hoạt văn học của Phật giáo trên nền tảng của Duyên Khởi - Tánh Không; thẩm xét giá trị của văn học (Danh) trong thể tính của Phật giáo (Thực). Bài viết cũng cho chúng ta một tổng quan về các khuynh hướng và thể loại văn học Phật giáo, từ nguồn gốc kinh điển cũng như đối với nền văn học hiện đại. Các thuận lợi cho sự phát triển và những quan ngại cho sự suy yếu của văn học Phật giáo cũng được tác giả trung thực nêu ra.

Tiếp đến là bài “Văn học Phật giáocon đường tri thức vượt thoát” của Thích Nguyên Siêu, nhấn mạnh điểm cốt lõi tinh hoa của nền văn học Phật giáo: giải thoát tri kiến. Từ những dẫn chứng công phu và chắt lọc trong kinh điển, tác giả minh định con đường cao đẹp của văn học Phật giáo, dù trong thể loại và thể tài nào, cũng hướng đến mục tiêu tối hậugiải thoát, giác ngộ, đem lại an vui cho sinh loại.

Sau đó, là bài “Dẫn vào thế giới văn học Phật giáo” của Tuệ Sỹ. Vì là người trong nước, tác giả không chính thức góp mặt trong tuyển tập này; nhưng trên bình diện văn học Phật giáo, ông là một trong rất hiếm người có thẩm quyền chuyên môn để đưa ra cái nhìn thấu đáo và quán thông về thế giới ngôn ngữ văn tự, về yếu tính của văn học Phật giáo. Chúng tôi xem bài viết của ông như là kim chỉ nam cho những người làm văn hóa, văn học Phật giáo, vì vậy xin trích đăng vào phần đầu của tuyển tập để làm tài liệu tham khảo.

Sau cùng là hai đoản văn của Vĩnh Hảo, “Suy nghĩ về văn học Phật giáo”“Tìm, Nhìn và Thấy.” Những ưu tư trăn trở của tác giả về sinh hoạt văn học Phật giáo được gửi gắm trong hai bài viết này, chủ yếu là gợi ý cho việc mở rộng các khuynh hướng sáng tác trong Phật giáo, dựa trên bố cục và lý nghĩa của Tứ Thánh Đế. Theo tác giả, việc mở rộng này không những cần sự phối hợpđồng điệu cảm thông giữa người viết và người đọc, mà còn qua trung gian quan trọng của những cơ quan báo chí, truyền thông. Nếu người chủ trương báo chí không nhìn nhận một sáng tác phẩm nào đó thuộc văn học Phật giáo thì sáng tác ấy sẽ không có mặt trên các diễn đàn Phật giáo, và dĩ nhiên sẽ không thể đến với người đọc Phật giáo như là tác giả mong đợi.

Tiếp sau các bài viết trong phần tổng luận là các sáng tác của nhiều thế hệ tác giả, dịch giả tiêu biểu, từ những vị tuổi đời trên 80 cho đến hàng hậu sinh tuổi đời dưới 30; qua đó, quý vị sẽ nhận ra một thế giới bao la, sâu rộng của Phật giáo được trình bày bằng đủ các thể loại văn học: biên khảo, tiểu luận, tham luận, ký sự, tùy bút, truyện ngắn, thơ, v.v…; và mỗi tác giả từ vị trí của mình, đã biểu hiện cảm quan, tư duy, ngôn ngữ của mình trong hầu hết các phương diện của đời sống: chính trị, văn hóa, lịch sử, phong tục, xã hội, tôn giáo, tình cảm, v.v… Đa dạng, nhưng cùng một âm hưởng: nhân bản, trí tuệsiêu thoát. Đó là tiếng nói chung của những người con Phật, dù ở thế hệ trước hay sau, từ tổ chức này hay tổ chức khác, hoặc chỉ từ những cá nhân đơn độc dấn thân vào trần gian khổ lụy với hành trang của đạo giải thoát

Về hình thức, tuyển tập này, như đã nói ở trước, xem như là Bộ I, chia thành hai tập, I và II, gồm 3 phần chính: Tổng luận (phần I), Tác giảTác phẩm (phần II), và Phụ lục (phần III).

Phần II, Tác giảTác phẩm được sắp theo mẫu tự alphabet (a, b, c…), dùng chữ đầu của (tên) họ, bút hiệu, pháp danh, hoặc pháp hiệu. Ví dụ Nguyễn Tất Nhiên, họ Nguyễn, được xếp vào vần N; Hoang Phong, bút hiệu, được xếp vào vần H; Chân Huyền, pháp danh, được xếp vào vần C. Riêng quý vị Tăng Ni với họ Thích, Thích nữ, chúng tôi xin lấy chữ đầu của pháp hiệu, còn chữ Thích hay Thích nữ được đặt sau nơi phần danh mục để dễ tra tìm. Ví dụ Thích Hạnh Tuấn, được ghi nơi danh mụcHạnh Tuấn (Thích), xếp nơi vần H; nhưng nơi trang chính của tác giả, chúng tôi ghi đúng là Thích Hạnh Tuấn.

Vì số trang quá dày, sách được phân thành hai tập. Các tác giả từ vần B - M được sắp trong tập I; các tác giả từ vần N - V được sắp trong tập II. Tuy vậy, ở mỗi tập đều có đầy đủ Mục LụcDanh Mục Tác giả & Tác phẩm để quý vị dễ tra cứu

Nhân đây, chúng tôi xin thành tâm tri ân chư tôn Thiền Đức Tăng, Ni và các văn thi hữu đã hết lòng hỗ trợ, khích lệ, góp ý, gửi tài liệuhoan hỷ cho phép chúng tôi dùng tài liệu của quý vị trong bộ sách này. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm tạ các trang mạng Phật Giáo Việt Nam, bởi nhờ các trang mạng này chúng tôi có thể tìm được một số tài liệu mà trong tay chúng tôi không có. 

Nhìn lại bộ sách, chúng tôi biết hãy còn thiếu sót rất nhiều văn thi hữu từng có những đóng góp đáng kể trong sinh hoạt văn học Phật giáo hải ngoại. Thiếu sót này không cho phép chúng tôi thỏa mãn để rồi dừng lại công trình sưu tập. Chúng tôi dặn lòng sẽ nỗ lực nhiều hơn nữa để có các bộ kế tiếp (mỗi bộ trên dưới 100 vị); nhưng thành tựu hay không đều do sự hoan hỷ cọng tác của quý vị.

Trên tay quý vị là một tuyển tập khiêm nhường, giới hạn. Nhưng dù thế nào, đây là tinh hoa tư tưởngsáng tác phẩm của quý văn thi hữu đã ưu ái, tin cậy trao phó cho chúng tôi. Với lòng cảm kích, biết ơn, xin được trân trọng giới thiệu bộ I của Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo. 

 

Ngày 15 tháng 12 năm 2009

Thích Tâm Hòa & Bùi Ngọc Đường

Mời xem bản PDF [Tập 1] [Tập 2]



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16880)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22983)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13065)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22201)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14874)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23597)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24131)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23655)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17155)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19368)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27089)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14434)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13854)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22699)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14764)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17373)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12689)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13879)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10424)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14719)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17208)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12559)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12725)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10380)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28725)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10716)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11140)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16885)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15787)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13350)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12565)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11380)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19319)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12260)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28633)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10059)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21541)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12803)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17835)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26267)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11717)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10866)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22767)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12052)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10618)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11422)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11542)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
(Xem: 10179)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant