Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Năm Yếu Tố Hòa Bình Của Phật Giáo

08 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 8757)
8. Năm Yếu Tố Hòa Bình Của Phật Giáo
tam_quyen_sach_quy


QUYỂN TÁM:
NĂM YẾU TỐ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO

 

LỜI MỞ ĐẦU


Mỗi buổi sáng sớm thức dậy, ban mở vội tờ báo hàng ngày mà thằng bé bán báo đã chùi qua khe cửa trong lúc bạn còn đang ngủ. Bạn hy vọng sẽ tìm thấy những tin vui, mới lạ, phấn khởi... Nhưng bạn đã đọc thấy gì? Một bà vợ của một sĩ quan cao cấp đã thuê người ta tạt a-xít vào một cô vũ nữ trẻ đẹp, đã cướp chồng bà. Một đứa bé mới mười sáu tuổi, vì không được yêu đã chém chết đứa em bảy tuổi của người yêu. Một ông già đã hãm một em bé rồi cắt cổ vất xuống sông để phi tang. Một bọn cướp đã ném lựu đạn vào một tiệm vàng trước khi rút lui, làm chết ba người và bị thương nhiều người khác. Một bà kỹ sư giựt hụi trên một trăm triệu bị giải tòa. Một thiếu nữ uống độc dược tự tử vì bị lường gạt cả tình lẫn tiền. Một dân vệ sau khi nhậu đã xách súng bắn chơi... làm chết một em bé chăn trâu. Hai ông sui gia chén tạc chén thù rất thân mật đến say rồi... vác chai choảng vào đầu nhau gần chết... Bao nhiều là chuyện buồn trong nước. 

Bạn chán ngán, tìm mục tin tức quốc tế. Bạn không cần phải tìm lâu. Một cái "tít" lớn chiếm luôn bốn cột báo đập vào mắt bạn: "Cút-Xếp dọa gọi quân nhân trừ bị". Bên cạnh đó, có một cái "tít" khác cũng không kém đồ sộ, báo tin: "Mỹ sẽ thả bom nguyên tử xuống đất Nga và sẽ san bằng các đô thị, nếu Nga gây hấn trước". Và rải rác trên tờ báo, chỗ này: "Hội nghị mười bốn nước ở Giơ-neo sắp tan vỡ". Chỗ kia: "Pháp thả bom xuống Bi-déc làm nhiều người chết và bị thương". Chỗ nọ: "Đảo chánh lần thứ ba ở Đại Hàn Dân quốc"... Thật là buồn! Đâu đâu cũng thấy những tin đe dọa bất an, chiến tranh, chết chóc! Từ trong nước đến ngoài nước; đâu đâu cũng chỉ nghe những tin dữ, cũng chỉ thấy những cảnh âm u đen tối, thảm sầu; cũng chỉ ngửi thấy một mùi sát khí. Trời đất sáng tối nối tiếp xoay vần, không thay đổi. Lòng người từ mấy vạn đời, vẫn chất chứa những nỗi lo sợ, buồn giận, ghét ghen! 

Sao cuộc đời chưa sáng rực lên nhĩ? Sao lòng người chưa trút hết những ưu tư, và hân hoan ca hát nhỉ? Ai cũng mong mỏi thiết tha được sống yên ổn mà không ai được yên ổn cả! Nước nào cũng mong được hòa bình, mà nước nào cũng đang chuẩn bị chiến tranh và bị tố cáo là có ý gây hấn! 

Hơn bao giờ hết, ngày nay cái họa diệt vong vì bom nguyên tử đang đe dọa loài người một cách thường trực. Thế giới như đang sống trên một hầm thuốc súng mà một tàn lửa nho nhỏ cũng có thể làm tung nổ bất cứ lúc nào. Chúng ta hoặc đang ở trong những tòa nhà nguy nga đồ sộ, hay đang ở trong những mái nhà tranh vách lá, đang lăn lộn giữa đô thị huy hoàng, hay đang tắm mình mình trong bầu không khí trong trẻo ở đồng quê; chúng ta hoặc ở trong hoàn cảnh này hoặc ở trong hoàn cảnh khác, tất cả mọi người trên thế giới, đều bị ràng buộc trong một số phận đen tối như nhau, là: nếu có một trận thế chiến thứ ba xảy ra, thì bất luận giàu nghèo, sang hèn, trí ngu, Đông Tây, Nam Bắc, Nga hay Mỹ đều tan thành tro bụi trong chốc lát vì những trái bom nguyên tử! Không nghĩ đến viễn tượng hãi hùng của thế giới thì thôi, chứ nghĩ tới thì không thể nào lạc quan được! Ánh điện mỗi ngày mỗi đẩy lui bóng đêm trên thế giới, nhưng bóng tối trong lòng người mỗi ngày một dày thêm lên! Những ánh đèn màu tắt đỏ, đỏ tắt trên các bảng hiệu, những điệu nhạc quay cuồng phát ra từ những ống phóng thanh, từ những máy thâu thanh; những điệu nhảy múa điên dại, quay cuồng trong các vũ trường, hộp đêm, phải chăng là những liều thuốc hiệu nghiệm để thanh niên ngày nay tìm quên thực tại, mỗi khi đêm đến trên trần gian và trong lòng họ? 

Chúng ta phải công nhận, về vật chất, chúng ta được nhiều tiện nghi hơn người xưa nhiều. Nhưng về tinh thần, chúng ta vẫn bị dày vò, đày đọa vì bao nỗi đau khổ mà ông cha chúng ta trước kia đã là nạn nhân.

I.- NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY ĐAU KHỔRỐI LOẠN

Những nguyên nhân của đau khổ và rốiloạn không ở đâu khác hơn là ở giữa lòng người: 

1.- Lòng độc ác của chúng ta chất chứa từ muôn vạn đời, hình như không giảm bớttrái lại, càng tinh vi, tế nhị hơn: 

Những sự đâm chém , giết chóc mỗi ngày mỗi nhiều. Chúng ta có đủ mọi khí cụ để giết nhau, từ những khí cụ thô sơ như dao, búa, tên, nỏ, đến những thứ giết người mau chóng tài tình nhất như súng đạn, hơi ngạt, điện tử, vi trùng, bom A, bom H, ánh sáng... 

Đối với thú vật, sự giết hại của loài người mỗi ngày mỗi tăng lên! Cứ mỗi phút, trên thế giới có từng triệu sinh vật bị cắt cổ, nhổ lông, phân thây, xẻ thịt... Nếu có thể dồn xương, chất thịt lại được một chỗ, thì mỗi ngày chúng ta sẽ có mọt trái núi bằng xương, bằng thịt cao hơn núi Điện Bà ở Tây Ninh; và nếu có thể dồn tất cả máu huyết của những sinh vật bị giết mỗi ngày trên thế giới, thì chúng ta sẽ có một dòng sông máu rộng bằng sông Hương, sông Đồng Nai. Nêu có thể nhìn được với Phật nhãn, chắc chắn chúng ta sẽ thấy thế giới chúng ta đang sống đây là một lò sát sanh lớn, trong ấy người ta đang làm đủ các thứ thịt, kể cả thịt người nữa. Nhất là trong những giai đoạn có chiến tranh, thì thịt người lại nhiều hơn thịt gì cả, và rất ế ẩm, vì không ai thèm mua đến. 

Loài người chưa có thể gọi là văn minh được, vì loài người chưa biết quý trọng sự sống là tác phẩm mỹ thuật đẹp đẽ, mầu nhiệm, tuyệt tác nhất trong các tác phẩm mỹ thuật trên trần gian này. Lòng người còn độc ác, nên không thương mến sự sống, còn thích giết chóc, và nhiều khi còn lấy làm thích thú được sát hại, được dịp làm đau đớn sự sống. 

Chúng ta thường nghe kể chuyện trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp vừa qua, có những "hung thần", mỗi ngày không bắn giết được mọt vài người thì ăn không ngon. Chúng ta không khỏi rùng mình ghê tởm khi nghe những chuyện ấy. Nhưng nếu thú vật biết nói, chúng cũng thì thầm với nhau: "Loài người, trong mỗi bữa ăn, nếu không chém giết ít ra là năm bảy mạng anh em chúng mình thì họ ăn cũng không thấy ngon". Hầu hết chúng ta đối với thú vật là những "hung thần" cả vậy! 

Loài người đang còn đau khổ, xã hội đang còn bộ mặt xấu xa, cảnh đời đang còn đen tối, vì chúng ta đang còn là những "hung thần" của sinh vật, và đôi khi còn là "hung thần" của chính đồng loại chúng ta nữa. 

2.- Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là sự tham lam

Chúng ta tham lam nhiều thứ: tham ăn, tham ngủ, tham danh, tham lợi, tham sắc... Tham ăn, tham ngủ tất nhiên sanh ra nhiều tệ hại; nhưng những tệ hại ấy chỉ hạn cuộc trong phạm vi của cá nhân ấy thôi. Tham danh hại nhiều hơn, nhưng cũng chưa nguy hại bằng tham lợi và tham sắc. 

Hai món tham sau này có một sức mạnh phá hoại gia đìnhxã hội không nhỏ. 

Chúng ta hãy nói trước đến sự tham lợi. Có phải không, từ xưa đến nay loài người đều sống trong sự tranh chấp quyền lợi? Từ trong phạm vi nhỏ hẹp như gia đình, xó, giềng, làng mạc, cho đến phạm vi rộng rãi như quốc gia, xã hội, quốc tế, mọi người, mọi dân tộc đều chạy theo cái lợi. Vì tranh nhau mọt trái cà, trái ổi mà hai người láng giềng phải dùng đến quả thoi, cái đá. Vì tranh nhau mọt miếng vườn, sào ruộng mà hai gia đình thù nhau, tìm cách hại nhau từ đời cha, đời con cho đến đời cháu! Vì tranh nhau một con sông, mọt trái núi, một cửa biển, một mỏ dầu mà dân lành hai nước đem nhau ra chiến trường, quyết một mất một còn? Và cũng vì tranh nhau chiếm thuộc địa mà hai trận thế chiến rùng rợn đã xảy ra và đã làm mồi cho tử thần gần trăm triệu sanh linh! 

Nhất là trong giai đoạn hiện tại, quyền lợi ám ảnh con người một cách khủng khiếp, khiến cho bất luận nghĩ một điều gì, nói một chuyện gì, hay làm một việc gì, người ta cũng tự hỏi trước tiên: "Có lợi hay không?". Người ta đo cái giá trị, cái khả năng của ọt con người với cái số lợi tức mà người ấy kiếm được, với các ô tô, cái nhà lầu, cái gia tài mà người ấy đã tạo ra. 

Nhưng người ta đã tạo ra tài lợi bằng những phương tiện nào? Đó cũng là một vấn đề cần xét đến. 

Có người đã tạo ra gia tài sự nghiệp với mồ hôi, nước mắt, với tài trí của mình. Với những hạng người làm ăn lương thiện này, chúng ta thấy không có gì đáng trách, trái lại, còn quý mến nữa là khác. Nhưng bên cạnh những hạng người này, chung quanh những người này, còn có bao nhiêu là người khác, vì quyền lợi làm mờ mắt, đã không từ khước một mưu mô gì, phương tiện gì, một thủ đoạn gì để thu hút tài lợi về mình. 

Trong phạm vi cá nhân đối với nhau, họ dùng mưu mô để lường gạt nhau, dùng sức mạnh để khuynh loát nhau; họ bóp chẹt nhau trong cơn túng thiếu, cho vay nặng lãi, cầm bán với giá rẻ mạt; họ tích trữ đầu cơ, làm chợ đen, cân non đong thiếu, đổi xấu lấy tốt; họ bày cờ gian bạc lận, gài bẫy những kẻ dại khờ. Và nếu không còn mưu chước gì khác, họ dám trèo tường, khoét vách, mở rương cạy tủ, hay trắng trợn hơn nữa đón đường chận ngõ bày trò cướp giật... 

Trong phạm vi quốc tế, nước mạnh tìm cách khuynh loát nước yếu; hôm nay họ xua quân xâm phạm biên giới, ngày mai đem máy bay xâm phạm không phận; ngày kia chận bắt một ít tàu bè đánh cá hay thuyền buôn, hết đổ thừa cho nước láng giềng nhỏ bé này những lỗi tày trời, đến vu cáo nước nhược tiểu kia có những mưu mô vô cùng đen tối, với mục đích cuối cùng là làm sao cho các nước khác phải nhượng cho mình một số quyền lợi, nếu không phải là tất cả mọi quyền lợi! 

3.- Lòng tham lợi đã gây ra bao sự xáo trộn, đảo điên cho cá nhân và đoàn thể như thế đó. Nhưng lòng "tham sắc" cũng không kém thua nguy hiểm: 

Sắc đẹp có một tác dụng lớn lao trong sự sinh hoạt của loài người. Bạn hãy đi một vòng trên đường phố Tự Do ở thủ đô chẳng hạn, thì bạn sẽ rõ. Có phải không, quá nửa hàng hóa trưng bày trong các tủ kính hay bên đường là để cung phụng cho ngừi đàn bà, cho phái đẹp. Này dép, này "xắc", này gấm, này nhung, này khăn quàng, lược dắt, này nước hoa, này phấn, này son, này vòng, này xuyến, này dây chuyền, này hoa tai, này ngọc ngà, này kim cương hột xoàn... Hơn một nửa năng lựchoạt động của loài người, đã được đem ra để phụng sự cho cái đẹp! Và một điều vô cùng mâu thuẫn là những vật không cần thiết, những xa xí phẩm nhất lại là những thứ đắt tiền nhất. Loài người, cả phái mạnh lẫn phái yếu, đều đã phụng sự sắc đẹp một cách tận tâm, tận lực, hơn một thứ gì khác ở trên đời. 

Nhưng ngược lại, sắc đẹp đã tàn phá cuộc đời nhiều hơn một độc dược nào hết, nhiều hơn một sức mạnh tàn phá nào hết. 

Người xưa thường có câu thành ngữ: "Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành". Mới nghe thì tưởng như nói ngoa. Nhưng đó là một sự thậtlịch sử đã chứng minh. Bao nhiêu triều đại ngai vàng đã sụp đổ vì một mỹ nhân; bao nhiêu thành trì, đất nước đã tiêu vong vì một tiếng khóc, một giọng cười, hay cái liếc mắt của người ngọc! May thay trong cái thời đại dân chủ này, một người đẹp dù là quốc sắc thiên hương đến bậc nào, cũng không còn có thể tác oai tác quái như xưa được nữa. Tuy thế, ảnh hưởng tai hại của họ trong quốc sách, trong chính trường vẫn không nhỏ. 

Có người sẽ cãi rằng: "Sắc đẹp đâu phải là một tội lỗi? Tội lỗi là tại lòng say hoa đắm sắc kia chứ!". Vâng, chúng tôi cũng định kết luận như thế. Sắc đẹp chỉ là nguyên nhân phụ thuộc. Nguyên nhân chính là của sự đổ vỡ, từ nhỏ đến lớn, từ cá nhân đến gia đình, xã hội đều tại lòng tham sắc dục mà ra. Vì sắc dục mà hai người yêu trở lại đâm chém nhau; vì sắc dục mà người mẹ đành đoạn thả trôi con theo dòng nước hay vất vào bụi rậm cho kiến tha gà mổ; vì sắc dục mà chồng vợ xa nhau, cha con ly tán, hạnh phúc gia đình tan vỡ; vì sắc dục mà sanh ra lường gạt, thụt két, mang công mắc nợ; vì sắc dụcsức khỏe hao mòn chết non, chết yểu; vì sắc dục mà mang bệnh suốt đời và di hại cho con cháu về sau (năm chục phần trăm những bệnh điên trên thế giới là gốc ở bệnh tình mà ra). 

4.- Một biến chứng khác của lòng tham lam là sự dối trá

Sự tham lam đẻ ra không biết bao nhiêu là tánh xấu và để che dấu sự xấu xa ấy, người ta phải lừa phỉnh dối gạt với nhau

Vì tham ăn mà đứa bé đã ăn chùng, ăn vụng, và để che dấu lỗi lầm của mình đã nói dối cha mẹ, tìm lý do này lý do khác, để biện minh cho sự mất mát vật thực. Vì tham ngủ, người học sinh không thuộc bài, đã tìm cớ này cớ khác để dối thầy giáo. Vì tham danh, người ta đã giả tạo những bằng cấp này, bằng cấp kia, đã tự phong cho mình những chức tước này nọ, không có trong thực tế. Vì tham lợi, nhà buôn đã lừa dối bạn hàng, phỉnh gạt người mua. Vì tham sắc, người chồng đã lừa dối vợ, gạt gẫm người yêu. 

Chúng ta thấy đó, vì tham mà nảy sanh sự dối trá. Nhưng ngược lại, vì dối trá mà lòng tham được che đậy, nên lại phát triển mạnh thêm. Dối trá là cái màn phủ lên, che đậy tội lỗi, là cái bình phong hào nhoáng ngăn dấu những hành động đen tối nguy hiểm cho đời sống chung.. 

Dối trá làm mất lòng tin, mà đã mất lòng tin thì không có một công cuộc gì có thể thành tựu được trong xã hội. Đức Khổng Tử dạy rất đúng: "Nhân vô bất tín lập". 

Một sự nhận xét làm cho chúng ta không khỏi buồn rầu, lo ngại là trong sự giao thiệp hàng ngày giữa cá nhân với cá nhân, hay nước này với nước khác, lòng chân thành, ngay thật mỗi ngày một hiếm dần. Người ta nói một đàng mà làm một ngả; nói có mà làm không, nói không mà làm có. Không ai tin được ai. Người ta sống nơm nớp trong sự lo sợ bị lừa dối, phỉnh gạt. Do đó, người ta luôn luôn giữ thế thủ, giữ miếng ngay cả đối với những người thân, và nhiều khi, để khỏi bị lừa dối, người ta dở trò lừa dối trước. Với một tâm trạng như thế, không có một tình cảm đẹp đẽ nào, không có một mối thâm giao nào là không bị sự ngờ vực ung độc và giết chết. Tóm một lời, quốc gia, xã hội cũng như gia đình, không thể yên ổn hòa vui được, khi dối trá, lường gạt đang hoành hành. 

5.- Một nguyên nhân khác của đau khổxấu xa, không kém phần quan trọng, có lẽ còn quan trọng hơn cả những nguyên nhân đã kể trên, là sự "si mê, ngu dốt": 

Chính đức Phật, hiện than của trí huệ sáng suốt đã dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì". (không sợ tham và sân khởi, chỉ sợ giác ngộ chậm). 

Thật thế, tánh xấu xa, ác độc nào cũng có thể sửa chữa, tiêu trừ được cả, với một điều kiện tiên quyết là có sự sáng suốt hiểu biết hay dở, phải trái, chánh tà. Người không có trí huệ thì khó lòng thoát khỏi cảnh đen tối khổ đau. Người không có trí huệ như kẻ mù đi trong rừng rậm, không thể nào thoát khỏi tai nạn sa hố, sụp hầm và làm mồi cho thú dữ. Trong kinh, Phật thường ví dụ người ngu si như kẻ liếm mật trên lưỡi dao, không thể nào tránh khỏi cái nạn bị đứt lưỡi. Thật là một ví dụ rất cụ thểlinh động, nói lên được sự nguy hiểm của ngu si

Người ta tàn ác, tham lam, giết người, cướp của, đắm mê sắc dục, lừa đảo, dối gạt cũng vì ngu si, không nhận rõ được hậu quả tai hại của những hành động tội lỗi của mình. Cho nên đức Phật thường dạy: "Ngu si là gốc của muôn tội lỗi". 

Một gia đình gồm những người ngu si, thì gia đình ấy là một khám đường, một xã hội gồm những phần tử ngu si, thì xã hội ấy là một địa ngục... 

Chúng ta có thể tìm thêm nhiều nguyên nhân gây đau khổ cho cá nhân, và loạn lạc cho xã hội nữa, nhưng xét ra, những nguyên nhân chính không ngoài những điều vừa nói ở các đoạn trên là: tánh độc ác, lòng tham lam tài sắc, sự dối trángu si

Diệt trừ được những nguyên nhân trên, chắc chắn cuộc đời sẽ bớt khổ đau và bớt loạn lạc nhiều lắm. Nhưng chúng ta phải công nhận rằng: diệt trừ tận gốc các nguyên nhân trên không phải là dễ, vì chúng đã ăn sâu gốc rễ trong lòng người từ muôn vạn đời rồi. Vả lại, xã hội loài người rất phức tạp, trình độ không đồng đều, hoàn cảnh của mỗi người cũng không giống nhau, khó có thể làm cho con người trở thành thân thiện, trong một thời gian ngắn được. 

Nhưng nói như thế, không có nghĩa là chúng ta đành khoanh tay chịu bất lực trước sự hoành hành của những tánh xấu xa, đen tối đâu. Nếu chưa có thể diệt trừ tận gốc chúng nó, thì ít ra chúng ta cũng phải có phương phápchận đứng chúng nó lại, không cho bành trướng ra nữa, để chúng khỏi làm hại cho cá nhân và đoàn thể chứ! 

Đứng trước vấn đề trọng đại trên, đạo Phật đã giải quyết như thế nào?

II.- NHỮNG PHƯƠNG THUỐC ĐỐI TRỊ CỦA ĐẠO PHẬT

Đức Phật có nhiều phương thức để đối trị những chứng bệnh nói trên. Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, trình độ của chúng sinh rất phức tạp, chứng bệnh nặng nhẹ cũng khác nhau, nên Phật đã chế ra đến tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị. Tuy pháp môn thì nhiều như thế, nhưng chung quy có thể chia làm hai loại lớn: loại chữa bệnh tận gốc và loại ngăn ngừa không cho phát ra. 

Có những chứng bệnh kinh niên trầm trọng không thể trong một lúc mà chữa tuyệt nọc được. Nếu nóng nảy muốn cho mau lành mà dùng thuốc quá mạnh, thì sẽ nguy đến tánh mạng con bệnh. Cho nên, trước khi chữa tuyệt nọc, người lương y giỏi phải dùng thứ thuốc tương đối nhẹ để ngăn chận bệnh, không cho nó tiến thêm nữa. 

Sự ngăn chận những tâm bệnh nói trên, đức Phật gọi là giới, hay những điều ngăn cấm. 

1.- Để đối trị lòng ác độc, đức Phật ngăn cấm đệ tử không được giết hại: 

Sự ngăn cấm này có tính cách tuyệt đối hay tương đối, tùy theo căn cơ và sự phát nguyện của người đệ tử. Đối với những căn cơ ít độc ác, muốn giữ hoàn toàn giới sát, thì họ phát nguyện không giết một sanh vật nào, dù nhỏ bao nhiêu. Họ không giết thú vật để ăn thịt, họ cũng không giết thú vật vì thù ghét, hay vì thú vui. Nghĩa là họ biết tôn trọng sự sống của sinh vật khác cũng như tôn trọng sự sống của mình. Họ áp dụng tinh thần bình đẳng tuyệt đối của chư Phật, xem mọi sự sống như nhau, không lấy sự sống này phụng sự cho sự sống khác. Họ thi hành đúng theo lòng từ bi tuyệt đối của chư Phật, xem mọi đau khổ của chúng sanh như sự đau khổ của mình, thương xót chúng sanh như thương xót mình, không làm cho chúng sanh đau khổ để mình khỏi khổ đau 

Nhưng đối với những căn cơ chưa có thể hàng phục được lòng độc ác, thì giới cấm sát chỉ áp dụng trong phạm vi tương đối, nghĩa là chỉ phát nguyện không giết hại người. 

Tuy thế, người Phật tử không thể viện lý do vì mình chỉ phát nguyện không giết người, mà có thể mặc tình chém giết thú vật. Giới cấm này mục đích là ngăn chận sự phát sinh của lòng độc ác. Nếu mình đã phát nguyện giữ giới này mà cón lấy làm thú vị trong sự giết hại thú vật, như đi săn bắn, đi câu v.v... thì lòng độc ác khó bị ngăn chận được. Vả lại lòng độc ác đưa đến sự giết người không phải nảy sinh trong chốc lát, mà do sự huân tập lâu ngày, mỗi khi một ít. Khi nghe tường thuật trên báo chí một cậu học sinh đã chém chết chị dâu vì một câu nói nặng, hay một anh cạo heo đã dùng dao bàn thọc vào bụng khách hàng sau một hồi cãi lẫy. Có nhiều người lấy làm ngạc nhiên tự hỏi sao người ta có thể giết người một cách dễ dàng, vì một vài câu nói như vật? Thật ra, những câu cãi vả ấy chỉ là một nguyên nhân phụ, một cơ hội vô nghĩa, mà nguyên nhân chính là lòng độc ác đã được huân tập, đã được nuôi dưỡng từ lâu trong nhiều trường hợp trước. Đó chỉ là một giọt nước thêm vào ly nước đã đầy làm cho nó tràn ra. Giọt nước sau cùng chỉ là một nguyên nhân phụ, nguyên nhân chính là ly nước đã đầy quá rồi. Cậu học sinh nói trên sở dĩ đã giết chị dâu một cách gần như vô nghĩa như thế, là do sự hung bạo đã được dồn góp lâu ngày rồi. Chắc chắn, cậu thuộc vào hạng "lưu manh", đã nhiều lần dùng khóa xe đạp, dùng bàn tay sắt, hay con dao chó đánh lộn với những du đảng khác rồi. Cậu là hạng "dao búa" đã quen tay đấm đá, quen nhìn thấy máu rơi thịt đổ, đã dễ phẩn nộ trong những trường hợp bất như ý, nên đã trở thành một kẻ sát nhân giết chị dâu một cách tự nhiên như thế. 

Và anh thợ cạo heo kia cũng vậy. Sở dĩ anh đâm người khách hàng kia không do dự là vì hằng ngày anh đã quen dùng dao đam vào họng heo, đã quen róc da xẻ thịt quá nhiều rồi, nên bây giờ anh không "gớm" tay đâm vào vào bụng người trong một cơn tức giận. Và nếu chúng ta đi tìm nguyên nhân xa hơn nữa, chắc chắn chúng ta sẽ biết thêm được rằng thuở nhỏ, anh cạo heo này, cũng như cậu học sinh kia, cũng đã thường hay bắt châu chấu, giết thằn lằn, tìm thích thú trong sự bắn chim, câu cá... nghĩa là đã quen với sự giết chóc sanh vật nhiều rồi, mà không được ai khuyên răn, cản trở

Cho nên chúng ta đừng nên bắt chước một số người hời hợt, thường chê cười đạo Phật quá "lý tưởng", quá "yếm thế". quá "không tưởng" vì đã khuyên loài người đừng giết hại sinh vật. Có không giết hại sanh vật mới khỏi giết hại người. Đạo Phật sở dĩ được gọi là đạo hòa bình và đã thức hiện được một phần nào lòng từ bi của đức Phật, chính là ở giới bất sát này. 

Chúng ta hãy nên thương xót lấy loài vật, đừng tàn nhẫn với chúng, để tập đừng tàn nhẫn với người. Khi chúng ta còn cần đến thịt cá, chúng ta đừng tự bào chữa rằng: "Vật dưỡng nhơn", mà tự bảo rằng: "Ta còn thèm thịt cá, nên ta còn phải giết thú vật, ta giết chúng nhưng ta vẫn thương xót chúng, như là những kẻ đã hy sinh cho loài người

Đức Khổng Tử, mặc dù còn ăn thịt, nhưng đã nói một câu bộc lộ được lòng nhân đức của ngài, và làm cho chúng ta vô cùng cảm phục: "Văn kỳ thinh, bất nhẫn thực kỳ nhục; kiến kỳ sinh, bất nhẫn kiến kỳ tử" (Nghe tiếng kêu là của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống, không đành thấy nó chết). 

Bây giờ đứng về phương diện xã hội mà xét, chúng ta sẽ thấy nếu nhân loại áp dụng được lời răn dạy này của đức Phật, thì cõi đời này sẽ vơi đi biết bao nhiêu là máu đào lệ nóng, sẽ bớt đi biết bao là lời than tiếng khóc, sẽ dập tắt được bao nhiêu là ngọn lửa căm thù đang nung nấu trong lòng người, bao nhiêu là ngọn lửa chiến tranh đang thiếu đốt công trình vĩ đại của nhân loại. Thật đúng như Tổ xưa đã dạy:

Nhất thiết chúng sanhsát nghiệp
Thập phương hà xứ động đao binh. 
Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện
Thiên hạ hà sầu bất thái bình.

Nghĩa là:

Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết, 
Mười phương nào có nỗi đao binh. 
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.

2.- Bây giờ chúng ta hãy nói đến phương thuốc đức Phật dạy trừ tham lợi

Tất nhiên ở đây, trong giai đoạn đầu, đức Phật chỉ dạy ngăn ngừa sự tham lợi một cách bất chính, phi nhân, phi nghĩa mà thôi. Như chúng ta đã thấy ở đoạn trước, lòng tham lợi bất chính biến thể ra nhiều hình thức. Có hình thức trắng trợn, lộ liễu trực tiếp dùng võ lực giựt ngang của người, hay đào ngạch cạy cửa nhà người để trộm cắp. Có hình thức che đậy, gián tiếp dùng mưu kế thâm độc để lấy của người, như cho vay nặng lãi, tích trữ đầu cơ, cân non đong thiếu, ăn hối lộ v.v... 

Nhưng dù hình thức nào, hễ lấy của người một cách phi nghĩa, đức Phật đều gọi là trộm cướp cả, và ngăn cấm đệ tử của ngài không được phạm đến. 

Lời răn dạy này dựa trên tinh thần từ bicông bằng

Khi bị mất tiền bạc hay một vật gì quý báu, ta đau khổ thế nào, thì khi ta lấy của ai một vật gì, họ cũng đau khổ như thế. Ta không muốn đau khổ, thì lòng từ bi và công bằng cũng bắt buộc ta đừng làm cho kẻ khác phải đau khổ vì ta. 

Một xã hội không có trộm cướp, bóc lột nhau mới có thể gọi là một xã hội văn minh. Trái lại, một xã hội, dù cơ khí tiến bộ đến đâu, dù đầy đủ tiện nghi đến đâu, dù khoa học phát triển đến đâu, mà người ta còn dựa trên mưu mô quỷ quyệt, trên sự khuynh loát, bóc lột nhau, trên sự lường gạt, cướp bóc nhau để làm giàu có, thì xã hội ấy vẫn còn là dã man, mọi rợ. 

3.- Phương thuốc thứ ba của đức Phật nhằm vào sự ngăn ngừa bệnh tham sắc: 

Căn bệnh này, như chúng ta đã thấy ở đoạn trước, cũng không kém phần nguy hại, nhất là khi nó biến chứng bệnh tà dâm

Tà dâm tức là sự tham dục phi lễ, phi pháp. Phật dạy người xuất gia ly dục phải dứt hẳn dâm dục, còn người tại gia thì không được tà dục. Khi vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ, làm việc phi pháp thì gọi là tà. Nhưng nếu vợ chồng chính thức đi nữa, mà ăn nằm không phải chỗ, gần gũi nhau không chừng mực, thì cũng thuộc về tà dâm cả. Đó là nói về mặt thô thiển. Nói về mặt vi tế, thì phàm sự phóng tâm đắm sắc, nghĩ ngợi bất chính, chơi bời lả lơi, cũng đều thuộc về loại tà dâm cả (Phật Học Phổ Thông khóa thứ nhất). 

Sự ngăn cấm sắc dục nhằm mục đích giữ gìn hạnh phúc cho cá nhângia đình. Phật dạy: "Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thật vậy, người đắm say sắc dục, nếu không lâm bệnh nguy kịch, thì cũng sẽ chết yểu vì sự hoang chơi quá độ của mình, nếu không đau đớn khổ sở đến nỗi liều thân hủy mạng vì sự phụ rẫy của người yêu, thì cũng khó thoát khỏi được mũi dao, làn đạn của kẻ tình địch phủ phàng. 

Nếu người đàn ông hay đàn bà đã có gia đình rồi mà còn đi lang chạ, thì hạnh phúc gia đình thế nào cũng phải tan rã. Hoặc người vợ phải ôm tủi nuốt hờn, hoặc người chồng phải đau khổ vì nhục nhã; hoặc nếu không thể chịu đựng được nhau, thì vợ chồng phải chia rẽ, con cái bơ vơ, theo cha thì bỏ mẹ, theo mẹ thì mất cha! 

Cho nên tà dâm, mê đắm sắc dục là một mối nguy hại lớn nhất của hạnh phúc gia đình. Nếu giữ được giới tà dâm, sẽ có những lợi ích thiết thực sau đây:

- Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được toàn vẹn

- Trọn đời được người kính trọng

- Đoạn trừ hết cả phiền lụy quấy nhiễu

- Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm.

Về phương diện đoàn thể, một xã hội gồm những phần tử đoan chính, không đắm mê sắc dục, không hoang dâm, thì những điều thương luân bại lý, những cảnh thù hiềm chém giết sẽ không xảy ra, vợ chồng con cái sẽ sống hòa thuận an vui trong gia đình, bạn bè trọn niềm chung thủy. 

4.- Phương thuốc thứ tư của đức Phậtngăn ngừa sự dối trá, một tệ đoan gây tai hại không nhỏ cho cá nhânxã hội

Dối trá có bốn hình thức:

  1. Nói dối hay nói láo: Là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạt; hay khi ưa thì dịu ngọt thơm tho, khi gét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ, lời nóiviệc làm trước sau mâu thuẫn, bất nhất, đều gọi là nói dối cả.
  2. Nói thêu dệt: Là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận, là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người ta say mê đắm nhiễn, cũng có khi là nói biếm, nói băm, nói châm chích, làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho người nghe phải loạn tâm rối trí, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả.
  3. Nói lưỡi hai chiều: Hay nôm na hơn là nói "đòn xóc nhọn hai đầu" nghĩa là đến chỗ này thì về hùa với bên này, để nói xấu bên kia; đến bên kia thì về hùa với bên ấy, để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, kẻ ân người nghĩa chống đối nhau, oán thù nhau.
  4. Nói lời hung ác: Là nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi rủa làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.

Đoạn định nghĩa về sự dối trá trên, chúng tôi đã trích trong tập "Phật Học Phổ Thông khóa I", cũng đã cho chúng ta thấy được hình thức phức tạp, muôn mặt của sự dối trá, và sự tai hại, nguy hiểm của nó. 

Đức Phật đã nhận thấy rõ cái tầm phá hoại lớn lao của dối trá đời sống tập đoàn, nên ngài đã ngăn cấm không cho đệ tử của ngài sử dụng cái khí giới tai hại ấy. 

Có người bảo rằng: "Sống trong xã hội ngày nay mà thành thật, ngay thẳng quá thì không thể làm ăn được và dễ bị người ta lừa phỉnh". Do cái quan niệm sai lầm ấy, mà không ai thành thật với ai cả; ai cũng tìm cách để lừa dối người khác. Và cuối cùng xã hội là một trường nói dối, lừa đảo nhau, không ai còn tin ai được nữa. 

Mỗi người sống với một lớp sơn bên ngoài, với một cái mặt nạ, với những lời nói không phát ra tự thâm tâm của mình, những cử chỉ điệu bộ mượn chát, chẳng khác gì những kịch sĩ trên sân khấu! 

Cuộc đời đã bị vô minh che lấp bản tánh chân thật, làm cho loài người đã điên đảo khổ đau, lại còn bị sự lừa đảo dối gạt, bưng bít sự thật nữa, thì không biết đến bao giờ loài người mới tìm thấy được sự an vui, thanh tịnh

Cho nên ngăn cấm sự dối trá là một điều cần thiết, để nhân loại lần hồi tìm hiểu biết nhau hơn, để cõi đời không còn là một chợ đời gồm những kẻ buôn dối bán trá nữa. 

5.- Phương thuốc thứ năm mà đức Phật dùng để ngăn ngừa bệnh si mê, cuồng loạn

Là sự cấm tuyệt đệ tử của ngài ăn uống những thức ăn có chất làm rối loạn trí óc. Tất nhiên ở đây chỉ mới ngăn ngừa không cho si mê thêm, chứ chưa phải là trừ tuyệt được si mê. Muốn trừ tuyệt si mê, cần phải tu học nhiều hơn nữa. Nhưng đối với những kẻ sơ cơ, ngăn chận không cho sự si mê cuồng loạn khuấy phá cuộc đời thêm nữa, cũng đã quý lắm rồi. 

Trong các thức ăn uống làm rối loạn trí óc, rượu là thứ nguy hiểm nhất. Những tai hại do rượu gây ra cho nhân loại không thể nói hết. Những cuộc cãi vã đánh lộn phần nhiều đều có hơi rượu pha vào; các cuộc chém giết, các tai nạn xe cộ đa sốbóng dáng của ma men. Những đứa con khẳn khiu, khờ khạo, mất trí, điên cuồng phần nhiều là nạn nhân của tửu thần.

Trừ rượu là trừ được một phần lớn những nguyên nhân gây rối loạn cho chính mình, cho gia đìnhxã hội

Về phương diện cá nhân, người không uống rượu tránh được nhiều điều hại như: không mất tiền của, ít mang bệnh tật, không sinh lòng ác độc, ít nóng giận, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao... 

Về phương diện đoàn thể, mọt gia đình không có người rượu chè, thì gia đình được an vui, con cái ít bệnh tật ngu đần, một xã hôi không có người nghiệm rượu, thì xã hội ấy được hòa bình, nói giống được hùng cường.

PHẦN TỔNG KẾT

Năm phương thuốc trên này, không nói, chắc bạn cũng biết đó là "Ngũ giới", năm điều răn cấm của đức Phật đối với hàng Phật tử tại gia. Nó không có gì cao siêu huyền bí. So sánh với đạo Nho, thì nó chẳng khác "Ngũ thường":

- Không sát sinh chính là Nhân. 

- Không trộm cướp chính là Nghĩa. 

- Không tàm dâm chính là Lễ. 

- Không uống rượu chính là Trí. 

- Không nói dối chính là Tín.

Nhưng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín không được minh định một cách rõ ràng dứt khoát, khẳng định như ngũ giới. Ngũ giới có thể áp dụng chung cho tất cả mọi người; chứ ngũ thường chỉ riêng có kẻ sĩ, người quân tử mới hiểu rõ và làm được. 

Ngũ giới, mặc dù là những giáo điều của đức Phật đối với đệ tử của ngài, nhưng vẫn có thể đem ra áp dụng chug cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp, mọi dân tộc, mọi quốc gia trên thế giới

Chúng ta có thể ước ao rằng: nếu toàn thể nhân loại đều áp dụng ngũ giới, thì bộ mặt của thế giới này hoàn toàn thay đổi một cách vô cùng tốt đẹp

1.- Mọi cuộc chém giết sẽ không diễn ra hàng ngày, máu sẽ không đổ, thịt không rơi; nhân loại sẽ không xô đẩy nhau vào lò sát sanh của chiến tranh. 

2.- Không ai lo sự bị mất mát, cướp giật của cải; vật để rơi không ai lấy, ban đêm cửa không cần đóng, tiền bạc không cần thu dấu... Lao tù không cần phải xây dựng, vì không có tù nhân trộm cướp và thế giới các nước không còn xâm lăng lẫn nhua. 

3.- Những cảnh tượng dâm dật, cưỡng hiếp, những cuộc ghen tương, chép giết nhau giữa tình địch không xảy ra. Chồng vợ sống với nhau trong lễ nghĩa, chung thủy; con cái được sum vầy trong gia đình với cha mẹ, anh em. 

4.- Những cảnh dối trá, lường gạt không diễn ra hàng ngày. Từ trong gia đình ra đến xã hội, từ những cuộc hùn hạp nho nhỏ cho đến những công ty lớn lao, ở đâu người ta cũng tin cậy nhau, trung thành với nhau. Những tình cảm chân thật được phát lộ, mọi lòng dạ được cởi mở, hòa vui. 

5.- Những cảnh tượng tàn phá rùng rợn, bỉ ổi do ma men khuấy động sẽ được chấm dứt. Loài người sẽ hoạt động trong sự yên vui bình tĩnh của tâm hồn, trong sự sáng suốt của trí tuệ

Một thế giới đẹp đẽ như thế, cũng có thể gọi được là "thế giới hoàng kim" lắm phải không các bạn? 

Vậy chúng ta, mọi người, còn đợi gì nữa mà không thi hành ngũ giới, "năm yếu tố hòa bình của Phật giáo".


Viết xong ngày rằm tháng bảy, năm Tân Sửu (1961)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19872)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20944)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19303)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40556)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21279)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41094)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24126)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23072)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17850)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26974)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20746)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33652)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21038)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28944)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12709)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25322)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19160)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17527)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25804)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19018)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19005)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29046)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18915)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33355)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38424)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31264)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18248)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24530)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19456)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17918)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23076)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18036)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32213)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17395)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17441)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16090)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18575)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20778)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18081)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20122)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14899)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20923)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15070)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15769)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12944)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14513)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14928)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29419)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12778)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14531)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant