
QUYỂN TÁM:
NĂM YẾU TỐ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO
LỜI
MỞ ĐẦU
Mỗi buổi
sáng sớm thức dậy, ban mở vội tờ báo hàng ngày mà thằng bé bán báo đã chùi qua
khe cửa trong lúc bạn còn đang ngủ. Bạn hy vọng sẽ tìm thấy những tin vui, mới
lạ, phấn khởi... Nhưng bạn đã đọc thấy gì? Một bà vợ của một sĩ quan cao cấp đã
thuê người ta tạt a-xít vào một cô vũ nữ trẻ đẹp, đã cướp chồng bà. Một đứa bé
mới mười sáu tuổi, vì không được yêu đã chém chết đứa em bảy tuổi của người
yêu. Một ông già đã hãm một em bé rồi cắt cổ vất xuống sông để phi tang. Một
bọn cướp đã ném lựu đạn vào một tiệm vàng trước khi rút lui, làm chết ba người
và bị thương nhiều người khác. Một bà kỹ sư giựt hụi trên một trăm triệu bị giải
tòa. Một thiếu nữ uống độc dược tự tử vì bị lường gạt cả tình lẫn tiền. Một dân
vệ sau khi nhậu đã xách súng bắn chơi... làm chết một em bé chăn trâu. Hai ông
sui gia chén tạc chén thù rất thân mật đến say rồi... vác chai choảng vào đầu
nhau gần chết... Bao nhiều là chuyện buồn trong nước.
Bạn chán ngán, tìm mục tin tức quốc tế. Bạn không cần phải tìm lâu. Một cái
"tít" lớn chiếm luôn bốn cột báo đập vào mắt bạn: "Cút-Xếp dọa
gọi quân nhân trừ bị". Bên cạnh đó, có một cái "tít" khác cũng
không kém đồ sộ, báo tin: "Mỹ sẽ thả bom nguyên tử xuống đất Nga và sẽ san
bằng các đô thị, nếu Nga gây hấn trước". Và rải rác trên tờ báo, chỗ này:
"Hội nghị mười bốn nước ở Giơ-neo sắp tan vỡ". Chỗ kia: "Pháp
thả bom xuống Bi-déc làm nhiều người chết và bị thương". Chỗ nọ: "Đảo
chánh lần thứ ba ở Đại Hàn Dân quốc"... Thật là buồn! Đâu đâu cũng thấy
những tin đe dọa bất an, chiến tranh, chết chóc! Từ trong nước đến ngoài nước;
đâu đâu cũng chỉ nghe những tin dữ, cũng chỉ thấy những cảnh âm u đen tối, thảm
sầu; cũng chỉ ngửi thấy một mùi sát khí. Trời đất sáng tối nối tiếp xoay vần,
không thay đổi. Lòng người từ mấy vạn đời, vẫn chất chứa những nỗi lo sợ, buồn
giận, ghét ghen!
Sao cuộc đời chưa sáng rực lên nhĩ? Sao lòng người chưa trút hết những ưu tư,
và hân hoan ca hát nhỉ? Ai cũng mong mỏi thiết tha được sống yên ổn mà không ai
được yên ổn cả! Nước nào cũng mong được hòa bình, mà nước nào cũng đang chuẩn
bị chiến tranh và bị tố cáo là có ý gây hấn!
Hơn bao giờ hết, ngày nay cái họa diệt vong vì bom nguyên tử đang đe dọa loài
người một cách thường trực. Thế giới như đang sống trên một hầm thuốc súng mà
một tàn lửa nho nhỏ cũng có thể làm tung nổ bất cứ lúc nào. Chúng ta hoặc đang
ở trong những tòa nhà nguy nga đồ sộ, hay đang ở trong những mái nhà tranh vách
lá, đang lăn lộn giữa đô thị huy hoàng, hay đang tắm mình mình trong bầu không
khí trong trẻo ở đồng quê; chúng ta hoặc ở trong hoàn cảnh này hoặc ở trong
hoàn cảnh khác, tất cả mọi người trên thế giới, đều bị ràng buộc trong một số
phận đen tối như nhau, là: nếu có một trận thế chiến thứ ba xảy ra, thì bất
luận giàu nghèo, sang hèn, trí ngu, Đông Tây, Nam Bắc, Nga hay Mỹ đều tan thành
tro bụi trong chốc lát vì những trái bom nguyên tử! Không nghĩ đến viễn tượng
hãi hùng của thế giới thì thôi, chứ nghĩ tới thì không thể nào lạc quan được!
Ánh điện mỗi ngày mỗi đẩy lui bóng đêm trên thế giới, nhưng bóng tối trong lòng
người mỗi ngày một dày thêm lên! Những ánh đèn màu tắt đỏ, đỏ tắt trên các bảng
hiệu, những điệu nhạc quay cuồng phát ra từ những ống phóng thanh, từ những máy
thâu thanh; những điệu nhảy múa điên dại, quay cuồng trong các vũ trường, hộp
đêm, phải chăng là những liều thuốc hiệu nghiệm để thanh niên ngày nay tìm quên
thực tại, mỗi khi đêm đến trên trần gian và trong lòng họ?
Chúng ta phải công nhận, về vật chất, chúng ta được nhiều tiện nghi hơn người
xưa nhiều. Nhưng về tinh thần, chúng ta vẫn bị dày vò, đày đọa vì bao nỗi đau
khổ mà ông cha chúng ta trước kia đã là nạn nhân.
I.- NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY ĐAU KHỔ VÀ RỐI LOẠN
Những
nguyên nhân của đau khổ và rốiloạn không ở đâu khác hơn là ở giữa lòng
người:
1.- Lòng độc ác của chúng ta chất chứa từ muôn vạn đời, hình như không giảm bớt
mà trái lại, càng tinh vi, tế nhị hơn:
Những sự đâm chém , giết chóc mỗi ngày mỗi nhiều. Chúng ta có đủ mọi khí cụ để
giết nhau, từ những khí cụ thô sơ như dao, búa, tên, nỏ, đến những thứ giết
người mau chóng tài tình nhất như súng đạn, hơi ngạt, điện tử, vi trùng, bom A,
bom H, ánh sáng...
Đối với thú vật, sự giết hại của loài người mỗi ngày mỗi tăng lên! Cứ mỗi phút,
trên thế giới có từng triệu sinh vật bị cắt cổ, nhổ lông, phân thây, xẻ thịt...
Nếu có thể dồn xương, chất thịt lại được một chỗ, thì mỗi ngày chúng ta sẽ có
mọt trái núi bằng xương, bằng thịt cao hơn núi Điện Bà ở Tây Ninh; và nếu có
thể dồn tất cả máu huyết của những sinh vật bị giết mỗi ngày trên thế giới, thì
chúng ta sẽ có một dòng sông máu rộng bằng sông Hương, sông Đồng Nai. Nêu có
thể nhìn được với Phật nhãn, chắc chắn chúng ta sẽ thấy thế giới chúng ta đang
sống đây là một lò sát sanh lớn, trong ấy người ta đang làm đủ các thứ thịt, kể
cả thịt người nữa. Nhất là trong những giai đoạn có chiến tranh, thì thịt người
lại nhiều hơn thịt gì cả, và rất ế ẩm, vì không ai thèm mua đến.
Loài người chưa có thể gọi là văn minh được, vì loài người chưa biết quý trọng
sự sống là tác phẩm mỹ thuật đẹp đẽ, mầu nhiệm, tuyệt tác nhất trong các tác
phẩm mỹ thuật trên trần gian này. Lòng người còn độc ác, nên không thương mến
sự sống, còn thích giết chóc, và nhiều khi còn lấy làm thích thú được sát hại,
được dịp làm đau đớn sự sống.
Chúng ta thường nghe kể chuyện trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp vừa qua, có
những "hung thần", mỗi ngày không bắn giết được mọt vài người thì ăn
không ngon. Chúng ta không khỏi rùng mình ghê tởm khi nghe những chuyện ấy.
Nhưng nếu thú vật biết nói, chúng cũng thì thầm với nhau: "Loài người,
trong mỗi bữa ăn, nếu không chém giết ít ra là năm bảy mạng anh em chúng mình
thì họ ăn cũng không thấy ngon". Hầu hết chúng ta đối với thú vật là những
"hung thần" cả vậy!
Loài người đang còn đau khổ, xã hội đang còn bộ mặt xấu xa, cảnh đời đang còn
đen tối, vì chúng ta đang còn là những "hung thần" của sinh vật, và
đôi khi còn là "hung thần" của chính đồng loại chúng ta nữa.
2.- Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là sự tham lam:
Chúng ta tham lam nhiều thứ: tham ăn, tham ngủ, tham danh, tham lợi, tham
sắc... Tham ăn, tham ngủ tất nhiên sanh ra nhiều tệ hại; nhưng những tệ hại ấy
chỉ hạn cuộc trong phạm vi của cá nhân ấy thôi. Tham danh hại nhiều hơn, nhưng
cũng chưa nguy hại bằng tham lợi và tham sắc.
Hai món tham sau này có một sức mạnh phá hoại gia đình và xã hội không
nhỏ.
Chúng ta hãy nói trước đến sự tham lợi. Có phải không, từ xưa đến nay loài
người đều sống trong sự tranh chấp quyền lợi? Từ trong phạm vi nhỏ hẹp như gia
đình, xó, giềng, làng mạc, cho đến phạm vi rộng rãi như quốc gia, xã hội, quốc
tế, mọi người, mọi dân tộc đều chạy theo cái lợi. Vì tranh nhau mọt trái cà,
trái ổi mà hai người láng giềng phải dùng đến quả thoi, cái đá. Vì tranh nhau
mọt miếng vườn, sào ruộng mà hai gia đình thù nhau, tìm cách hại nhau từ đời
cha, đời con cho đến đời cháu! Vì tranh nhau một con sông, mọt trái núi, một
cửa biển, một mỏ dầu mà dân lành hai nước đem nhau ra chiến trường, quyết một
mất một còn? Và cũng vì tranh nhau chiếm thuộc địa mà hai trận thế chiến rùng
rợn đã xảy ra và đã làm mồi cho tử thần gần trăm triệu sanh linh!
Nhất là trong giai đoạn hiện tại, quyền lợi ám ảnh con người một cách khủng
khiếp, khiến cho bất luận nghĩ một điều gì, nói một chuyện gì, hay làm một việc
gì, người ta cũng tự hỏi trước tiên: "Có lợi hay không?". Người ta đo
cái giá trị, cái khả năng của ọt con người với cái số lợi tức mà người ấy kiếm
được, với các ô tô, cái nhà lầu, cái gia tài mà người ấy đã tạo ra.
Nhưng người ta đã tạo ra tài lợi bằng những phương tiện nào? Đó cũng là một vấn
đề cần xét đến.
Có người đã tạo ra gia tài sự nghiệp với mồ hôi, nước mắt, với tài trí của
mình. Với những hạng người làm ăn lương thiện này, chúng ta thấy không có gì
đáng trách, trái lại, còn quý mến nữa là khác. Nhưng bên cạnh những hạng người
này, chung quanh những người này, còn có bao nhiêu là người khác, vì quyền lợi
làm mờ mắt, đã không từ khước một mưu mô gì, phương tiện gì, một thủ đoạn gì để
thu hút tài lợi về mình.
Trong phạm vi cá nhân đối với nhau, họ dùng mưu mô để lường gạt nhau, dùng sức
mạnh để khuynh loát nhau; họ bóp chẹt nhau trong cơn túng thiếu, cho vay nặng
lãi, cầm bán với giá rẻ mạt; họ tích trữ đầu cơ, làm chợ đen, cân non đong
thiếu, đổi xấu lấy tốt; họ bày cờ gian bạc lận, gài bẫy những kẻ dại khờ. Và nếu
không còn mưu chước gì khác, họ dám trèo tường, khoét vách, mở rương cạy tủ,
hay trắng trợn hơn nữa đón đường chận ngõ bày trò cướp giật...
Trong phạm vi quốc tế, nước mạnh tìm cách khuynh loát nước yếu; hôm nay họ xua
quân xâm phạm biên giới, ngày mai đem máy bay xâm phạm không phận; ngày kia
chận bắt một ít tàu bè đánh cá hay thuyền buôn, hết đổ thừa cho nước láng giềng
nhỏ bé này những lỗi tày trời, đến vu cáo nước nhược tiểu kia có những mưu mô
vô cùng đen tối, với mục đích cuối cùng là làm sao cho các nước khác phải
nhượng cho mình một số quyền lợi, nếu không phải là tất cả mọi quyền lợi!
3.- Lòng tham lợi đã gây ra bao sự xáo trộn, đảo điên cho cá nhân và đoàn thể
như thế đó. Nhưng lòng "tham sắc" cũng không kém thua nguy
hiểm:
Sắc đẹp có một tác dụng lớn lao trong sự sinh hoạt của loài người. Bạn hãy đi
một vòng trên đường phố Tự Do ở thủ đô chẳng hạn, thì bạn sẽ rõ. Có phải không,
quá nửa hàng hóa trưng bày trong các tủ kính hay bên đường là để cung phụng cho
ngừi đàn bà, cho phái đẹp. Này dép, này "xắc", này gấm, này nhung,
này khăn quàng, lược dắt, này nước hoa, này phấn, này son, này vòng, này xuyến,
này dây chuyền, này hoa tai, này ngọc ngà, này kim cương hột xoàn... Hơn một
nửa năng lực và hoạt động của loài người, đã được đem ra để phụng sự cho cái
đẹp! Và một điều vô cùng mâu thuẫn là những vật không cần thiết, những xa xí
phẩm nhất lại là những thứ đắt tiền nhất. Loài người, cả phái mạnh lẫn phái
yếu, đều đã phụng sự sắc đẹp một cách tận tâm, tận lực, hơn một thứ gì khác ở
trên đời.
Nhưng ngược lại, sắc đẹp đã tàn phá cuộc đời nhiều hơn một độc dược nào hết,
nhiều hơn một sức mạnh tàn phá nào hết.
Người xưa thường có câu thành ngữ: "Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng
thành". Mới nghe thì tưởng như nói ngoa. Nhưng đó là một sự thật mà lịch
sử đã chứng minh. Bao nhiêu triều đại ngai vàng đã sụp đổ vì một mỹ nhân; bao
nhiêu thành trì, đất nước đã tiêu vong vì một tiếng khóc, một giọng cười, hay
cái liếc mắt của người ngọc! May thay trong cái thời đại dân chủ này, một người
đẹp dù là quốc sắc thiên hương đến bậc nào, cũng không còn có thể tác oai tác
quái như xưa được nữa. Tuy thế, ảnh hưởng tai hại của họ trong quốc sách, trong
chính trường vẫn không nhỏ.
Có người sẽ cãi rằng: "Sắc đẹp đâu phải là một tội lỗi? Tội lỗi là tại
lòng say hoa đắm sắc kia chứ!". Vâng, chúng tôi cũng định kết luận như
thế. Sắc đẹp chỉ là nguyên nhân phụ thuộc. Nguyên nhân chính là của sự đổ vỡ,
từ nhỏ đến lớn, từ cá nhân đến gia đình, xã hội đều tại lòng tham sắc dục mà
ra. Vì sắc dục mà hai người yêu trở lại đâm chém nhau; vì sắc dục mà người mẹ
đành đoạn thả trôi con theo dòng nước hay vất vào bụi rậm cho kiến tha gà mổ;
vì sắc dục mà chồng vợ xa nhau, cha con ly tán, hạnh phúc gia đình tan vỡ; vì
sắc dục mà sanh ra lường gạt, thụt két, mang công mắc nợ; vì sắc dục mà sức
khỏe hao mòn chết non, chết yểu; vì sắc dục mà mang bệnh suốt đời và di hại cho
con cháu về sau (năm chục phần trăm những bệnh điên trên thế giới là gốc ở bệnh
tình mà ra).
4.- Một biến chứng khác của lòng tham lam là sự dối trá:
Sự tham lam đẻ ra không biết bao nhiêu là tánh xấu và để che dấu sự xấu xa ấy,
người ta phải lừa phỉnh dối gạt với nhau.
Vì tham ăn mà đứa bé đã ăn chùng, ăn vụng, và để che dấu lỗi lầm của mình đã
nói dối cha mẹ, tìm lý do này lý do khác, để biện minh cho sự mất mát vật thực.
Vì tham ngủ, người học sinh không thuộc bài, đã tìm cớ này cớ khác để dối thầy
giáo. Vì tham danh, người ta đã giả tạo những bằng cấp này, bằng cấp kia, đã tự
phong cho mình những chức tước này nọ, không có trong thực tế. Vì tham lợi, nhà
buôn đã lừa dối bạn hàng, phỉnh gạt người mua. Vì tham sắc, người chồng đã lừa
dối vợ, gạt gẫm người yêu.
Chúng ta thấy đó, vì tham mà nảy sanh sự dối trá. Nhưng ngược lại, vì dối trá
mà lòng tham được che đậy, nên lại phát triển mạnh thêm. Dối trá là cái màn phủ
lên, che đậy tội lỗi, là cái bình phong hào nhoáng ngăn dấu những hành động đen
tối nguy hiểm cho đời sống chung..
Dối trá làm mất lòng tin, mà đã mất lòng tin thì không có một công cuộc gì có
thể thành tựu được trong xã hội. Đức Khổng Tử dạy rất đúng: "Nhân vô
bất tín lập".
Một sự nhận xét làm cho chúng ta không khỏi buồn rầu, lo ngại là trong sự giao
thiệp hàng ngày giữa cá nhân với cá nhân, hay nước này với nước khác, lòng chân
thành, ngay thật mỗi ngày một hiếm dần. Người ta nói một đàng mà làm một ngả;
nói có mà làm không, nói không mà làm có. Không ai tin được ai. Người ta sống
nơm nớp trong sự lo sợ bị lừa dối, phỉnh gạt. Do đó, người ta luôn luôn giữ thế
thủ, giữ miếng ngay cả đối với những người thân, và nhiều khi, để khỏi bị lừa
dối, người ta dở trò lừa dối trước. Với một tâm trạng như thế, không có một
tình cảm đẹp đẽ nào, không có một mối thâm giao nào là không bị sự ngờ vực ung
độc và giết chết. Tóm một lời, quốc gia, xã hội cũng như gia đình, không thể
yên ổn hòa vui được, khi dối trá, lường gạt đang hoành hành.
5.- Một nguyên nhân khác của đau khổ và xấu xa, không kém phần quan trọng, có
lẽ còn quan trọng hơn cả những nguyên nhân đã kể trên, là sự "si mê,
ngu dốt":
Chính đức Phật, hiện than của trí huệ sáng suốt đã dạy: "Bất úy tham
sân khởi, duy khủng tự giác trì". (không sợ tham và sân khởi, chỉ sợ giác
ngộ chậm).
Thật thế, tánh xấu xa, ác độc nào cũng có thể sửa chữa, tiêu trừ được cả, với
một điều kiện tiên quyết là có sự sáng suốt hiểu biết hay dở, phải trái, chánh
tà. Người không có trí huệ thì khó lòng thoát khỏi cảnh đen tối khổ đau. Người
không có trí huệ như kẻ mù đi trong rừng rậm, không thể nào thoát khỏi tai nạn
sa hố, sụp hầm và làm mồi cho thú dữ. Trong kinh, Phật thường ví dụ người ngu
si như kẻ liếm mật trên lưỡi dao, không thể nào tránh khỏi cái nạn bị đứt lưỡi.
Thật là một ví dụ rất cụ thể và linh động, nói lên được sự nguy hiểm của ngu
si.
Người ta tàn ác, tham lam, giết người, cướp của, đắm mê sắc dục, lừa đảo, dối
gạt cũng vì ngu si, không nhận rõ được hậu quả tai hại của những hành động tội
lỗi của mình. Cho nên đức Phật thường dạy: "Ngu si là gốc của muôn
tội lỗi".
Một gia đình gồm những người ngu si, thì gia đình ấy là một khám đường, một xã
hội gồm những phần tử ngu si, thì xã hội ấy là một địa ngục...
Chúng ta có thể tìm thêm nhiều nguyên nhân gây đau khổ cho cá nhân, và loạn lạc
cho xã hội nữa, nhưng xét ra, những nguyên nhân chính không ngoài những điều
vừa nói ở các đoạn trên là: tánh độc ác, lòng tham lam tài sắc, sự dối trá và
ngu si.
Diệt trừ được những nguyên nhân trên, chắc chắn cuộc đời sẽ bớt khổ đau và bớt
loạn lạc nhiều lắm. Nhưng chúng ta phải công nhận rằng: diệt trừ tận gốc các
nguyên nhân trên không phải là dễ, vì chúng đã ăn sâu gốc rễ trong lòng người
từ muôn vạn đời rồi. Vả lại, xã hội loài người rất phức tạp, trình độ không
đồng đều, hoàn cảnh của mỗi người cũng không giống nhau, khó có thể làm cho con
người trở thành thân thiện, trong một thời gian ngắn được.
Nhưng nói như thế, không có nghĩa là chúng ta đành khoanh tay chịu bất lực
trước sự hoành hành của những tánh xấu xa, đen tối đâu. Nếu chưa có thể diệt
trừ tận gốc chúng nó, thì ít ra chúng ta cũng phải có phương pháp gì chận đứng
chúng nó lại, không cho bành trướng ra nữa, để chúng khỏi làm hại cho cá nhân
và đoàn thể chứ!
Đứng trước vấn đề trọng đại trên, đạo Phật đã giải quyết như thế nào?
II.- NHỮNG PHƯƠNG THUỐC ĐỐI TRỊ CỦA ĐẠO PHẬT
Đức Phật
có nhiều phương thức để đối trị những chứng bệnh nói trên. Như chúng tôi đã
trình bày ở phần trên, trình độ của chúng sinh rất phức tạp, chứng bệnh nặng
nhẹ cũng khác nhau, nên Phật đã chế ra đến tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối
trị. Tuy pháp môn thì nhiều như thế, nhưng chung quy có thể chia làm hai loại
lớn: loại chữa bệnh tận gốc và loại ngăn ngừa không cho phát ra.
Có những chứng bệnh kinh niên trầm trọng không thể trong một lúc mà chữa tuyệt
nọc được. Nếu nóng nảy muốn cho mau lành mà dùng thuốc quá mạnh, thì sẽ nguy
đến tánh mạng con bệnh. Cho nên, trước khi chữa tuyệt nọc, người lương y giỏi
phải dùng thứ thuốc tương đối nhẹ để ngăn chận bệnh, không cho nó tiến thêm
nữa.
Sự ngăn chận những tâm bệnh nói trên, đức Phật gọi là giới, hay những điều ngăn
cấm.
1.- Để đối trị lòng ác độc, đức Phật ngăn cấm đệ tử không được giết hại:
Sự ngăn cấm này có tính cách tuyệt đối hay tương đối, tùy theo căn cơ và sự
phát nguyện của người đệ tử. Đối với những căn cơ ít độc ác, muốn giữ hoàn toàn
giới sát, thì họ phát nguyện không giết một sanh vật nào, dù nhỏ bao nhiêu. Họ
không giết thú vật để ăn thịt, họ cũng không giết thú vật vì thù ghét, hay vì
thú vui. Nghĩa là họ biết tôn trọng sự sống của sinh vật khác cũng như tôn
trọng sự sống của mình. Họ áp dụng tinh thần bình đẳng tuyệt đối của chư Phật,
xem mọi sự sống như nhau, không lấy sự sống này phụng sự cho sự sống khác. Họ
thi hành đúng theo lòng từ bi tuyệt đối của chư Phật, xem mọi đau khổ của chúng
sanh như sự đau khổ của mình, thương xót chúng sanh như thương xót mình, không
làm cho chúng sanh đau khổ để mình khỏi khổ đau
Nhưng đối với những căn cơ chưa có thể hàng phục được lòng độc ác, thì giới cấm
sát chỉ áp dụng trong phạm vi tương đối, nghĩa là chỉ phát nguyện không giết
hại người.
Tuy thế, người Phật tử không thể viện lý do vì mình chỉ phát nguyện không giết
người, mà có thể mặc tình chém giết thú vật. Giới cấm này mục đích là ngăn chận
sự phát sinh của lòng độc ác. Nếu mình đã phát nguyện giữ giới này mà cón lấy
làm thú vị trong sự giết hại thú vật, như đi săn bắn, đi câu v.v... thì lòng
độc ác khó bị ngăn chận được. Vả lại lòng độc ác đưa đến sự giết người không
phải nảy sinh trong chốc lát, mà do sự huân tập lâu ngày, mỗi khi một ít. Khi
nghe tường thuật trên báo chí một cậu học sinh đã chém chết chị dâu vì một câu
nói nặng, hay một anh cạo heo đã dùng dao bàn thọc vào bụng khách hàng sau một
hồi cãi lẫy. Có nhiều người lấy làm ngạc nhiên tự hỏi sao người ta có thể giết
người một cách dễ dàng, vì một vài câu nói như vật? Thật ra, những câu cãi vả
ấy chỉ là một nguyên nhân phụ, một cơ hội vô nghĩa, mà nguyên nhân chính là
lòng độc ác đã được huân tập, đã được nuôi dưỡng từ lâu trong nhiều trường hợp
trước. Đó chỉ là một giọt nước thêm vào ly nước đã đầy làm cho nó tràn ra. Giọt
nước sau cùng chỉ là một nguyên nhân phụ, nguyên nhân chính là ly nước đã đầy
quá rồi. Cậu học sinh nói trên sở dĩ đã giết chị dâu một cách gần như vô nghĩa
như thế, là do sự hung bạo đã được dồn góp lâu ngày rồi. Chắc chắn, cậu thuộc
vào hạng "lưu manh", đã nhiều lần dùng khóa xe đạp, dùng bàn tay sắt,
hay con dao chó đánh lộn với những du đảng khác rồi. Cậu là hạng "dao
búa" đã quen tay đấm đá, quen nhìn thấy máu rơi thịt đổ, đã dễ phẩn nộ
trong những trường hợp bất như ý, nên đã trở thành một kẻ sát nhân giết chị dâu
một cách tự nhiên như thế.
Và anh thợ cạo heo kia cũng vậy. Sở dĩ anh đâm người khách hàng kia không do dự
là vì hằng ngày anh đã quen dùng dao đam vào họng heo, đã quen róc da xẻ thịt
quá nhiều rồi, nên bây giờ anh không "gớm" tay đâm vào vào bụng người
trong một cơn tức giận. Và nếu chúng ta đi tìm nguyên nhân xa hơn nữa, chắc
chắn chúng ta sẽ biết thêm được rằng thuở nhỏ, anh cạo heo này, cũng như cậu
học sinh kia, cũng đã thường hay bắt châu chấu, giết thằn lằn, tìm thích thú
trong sự bắn chim, câu cá... nghĩa là đã quen với sự giết chóc sanh vật nhiều
rồi, mà không được ai khuyên răn, cản trở.
Cho nên chúng ta đừng nên bắt chước một số người hời hợt, thường chê cười đạo
Phật quá "lý tưởng", quá "yếm thế". quá "không
tưởng" vì đã khuyên loài người đừng giết hại sinh vật. Có không giết hại
sanh vật mới khỏi giết hại người. Đạo Phật sở dĩ được gọi là đạo hòa bình và đã
thức hiện được một phần nào lòng từ bi của đức Phật, chính là ở giới bất sát
này.
Chúng ta hãy nên thương xót lấy loài vật, đừng tàn nhẫn với chúng, để tập đừng
tàn nhẫn với người. Khi chúng ta còn cần đến thịt cá, chúng ta đừng tự bào chữa
rằng: "Vật dưỡng nhơn", mà tự bảo rằng: "Ta còn thèm thịt cá,
nên ta còn phải giết thú vật, ta giết chúng nhưng ta vẫn thương xót chúng, như
là những kẻ đã hy sinh cho loài người.
Đức Khổng Tử, mặc dù còn ăn thịt, nhưng đã nói một câu bộc lộ được lòng nhân
đức của ngài, và làm cho chúng ta vô cùng cảm phục: "Văn kỳ thinh, bất
nhẫn thực kỳ nhục; kiến kỳ sinh, bất nhẫn kiến kỳ tử" (Nghe tiếng kêu là
của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống, không đành thấy nó chết).
Bây giờ đứng về phương diện xã hội mà xét, chúng ta sẽ thấy nếu nhân loại áp
dụng được lời răn dạy này của đức Phật, thì cõi đời này sẽ vơi đi biết bao
nhiêu là máu đào lệ nóng, sẽ bớt đi biết bao là lời than tiếng khóc, sẽ dập tắt
được bao nhiêu là ngọn lửa căm thù đang nung nấu trong lòng người, bao nhiêu là
ngọn lửa chiến tranh đang thiếu đốt công trình vĩ đại của nhân loại. Thật đúng
như Tổ xưa đã dạy:
Nhất thiết
chúng sanh vô sát nghiệp,
Thập phương hà xứ động đao binh.
Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái bình.
Nghĩa là:
Hết thảy
chúng sanh không nghiệp giết,
Mười phương nào có nỗi đao binh.
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện,
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.
2.- Bây
giờ chúng ta hãy nói đến phương thuốc đức Phật dạy trừ tham lợi:
Tất nhiên ở đây, trong giai đoạn đầu, đức Phật chỉ dạy ngăn ngừa sự tham lợi
một cách bất chính, phi nhân, phi nghĩa mà thôi. Như chúng ta đã thấy ở đoạn
trước, lòng tham lợi bất chính biến thể ra nhiều hình thức. Có hình thức trắng
trợn, lộ liễu trực tiếp dùng võ lực giựt ngang của người, hay đào ngạch cạy cửa
nhà người để trộm cắp. Có hình thức che đậy, gián tiếp dùng mưu kế thâm độc để
lấy của người, như cho vay nặng lãi, tích trữ đầu cơ, cân non đong thiếu, ăn
hối lộ v.v...
Nhưng dù hình thức nào, hễ lấy của người một cách phi nghĩa, đức Phật đều gọi
là trộm cướp cả, và ngăn cấm đệ tử của ngài không được phạm đến.
Lời răn dạy này dựa trên tinh thần từ bi và công bằng.
Khi bị mất tiền bạc hay một vật gì quý báu, ta đau khổ thế nào, thì khi ta lấy
của ai một vật gì, họ cũng đau khổ như thế. Ta không muốn đau khổ, thì lòng từ
bi và công bằng cũng bắt buộc ta đừng làm cho kẻ khác phải đau khổ vì ta.
Một xã hội không có trộm cướp, bóc lột nhau mới có thể gọi là một xã hội văn
minh. Trái lại, một xã hội, dù cơ khí tiến bộ đến đâu, dù đầy đủ tiện nghi đến
đâu, dù khoa học phát triển đến đâu, mà người ta còn dựa trên mưu mô quỷ quyệt,
trên sự khuynh loát, bóc lột nhau, trên sự lường gạt, cướp bóc nhau để làm giàu
có, thì xã hội ấy vẫn còn là dã man, mọi rợ.
3.- Phương thuốc thứ ba của đức Phật nhằm vào sự ngăn ngừa bệnh tham sắc:
Căn bệnh này, như chúng ta đã thấy ở đoạn trước, cũng không kém phần nguy hại,
nhất là khi nó biến chứng bệnh tà dâm.
Tà dâm tức là sự tham dục phi lễ, phi pháp. Phật dạy người xuất gia ly dục phải
dứt hẳn dâm dục, còn người tại gia thì không được tà dục. Khi vợ chồng có cưới
hỏi đủ lễ gọi là chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ, làm việc phi pháp thì gọi
là tà. Nhưng nếu vợ chồng chính thức đi nữa, mà ăn nằm không phải chỗ, gần gũi
nhau không chừng mực, thì cũng thuộc về tà dâm cả. Đó là nói về mặt thô thiển.
Nói về mặt vi tế, thì phàm sự phóng tâm đắm sắc, nghĩ ngợi bất chính, chơi bời
lả lơi, cũng đều thuộc về loại tà dâm cả (Phật Học Phổ Thông khóa thứ
nhất).
Sự ngăn cấm sắc dục nhằm mục đích giữ gìn hạnh phúc cho cá nhân và gia đình.
Phật dạy: "Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió,
quyết bị nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thật vậy, người đắm
say sắc dục, nếu không lâm bệnh nguy kịch, thì cũng sẽ chết yểu vì sự hoang
chơi quá độ của mình, nếu không đau đớn khổ sở đến nỗi liều thân hủy mạng vì sự
phụ rẫy của người yêu, thì cũng khó thoát khỏi được mũi dao, làn đạn của kẻ
tình địch phủ phàng.
Nếu người đàn ông hay đàn bà đã có gia đình rồi mà còn đi lang chạ, thì hạnh
phúc gia đình thế nào cũng phải tan rã. Hoặc người vợ phải ôm tủi nuốt hờn,
hoặc người chồng phải đau khổ vì nhục nhã; hoặc nếu không thể chịu đựng được
nhau, thì vợ chồng phải chia rẽ, con cái bơ vơ, theo cha thì bỏ mẹ, theo mẹ thì
mất cha!
Cho nên tà dâm, mê đắm sắc dục là một mối nguy hại lớn nhất của hạnh phúc gia
đình. Nếu giữ được giới tà dâm, sẽ có những lợi ích thiết thực sau đây:
- Sáu căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được toàn vẹn.
- Trọn đời được người kính trọng.
- Đoạn trừ hết cả phiền lụy quấy nhiễu,
- Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm.
Về phương
diện đoàn thể, một xã hội gồm những phần tử đoan chính, không đắm mê sắc dục,
không hoang dâm, thì những điều thương luân bại lý, những cảnh thù hiềm chém
giết sẽ không xảy ra, vợ chồng con cái sẽ sống hòa thuận an vui trong gia đình,
bạn bè trọn niềm chung thủy.
4.- Phương thuốc thứ tư của đức Phật là ngăn ngừa sự dối trá, một tệ đoan gây
tai hại không nhỏ cho cá nhân và xã hội:
Dối trá có bốn hình thức:
- Nói dối hay nói láo: Là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạt; hay khi ưa thì dịu ngọt thơm tho, khi gét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ, lời nói và việc làm trước sau mâu thuẫn, bất nhất, đều gọi là nói dối cả.
- Nói thêu dệt: Là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận, là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người ta say mê đắm nhiễn, cũng có khi là nói biếm, nói băm, nói châm chích, làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho người nghe phải loạn tâm rối trí, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả.
- Nói lưỡi hai chiều: Hay nôm na hơn là nói "đòn xóc nhọn hai đầu" nghĩa là đến chỗ này thì về hùa với bên này, để nói xấu bên kia; đến bên kia thì về hùa với bên ấy, để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, kẻ ân người nghĩa chống đối nhau, oán thù nhau.
- Nói lời hung ác: Là nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi rủa làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.
Đoạn định
nghĩa về sự dối trá trên, chúng tôi đã trích trong tập "Phật Học Phổ Thông
khóa I", cũng đã cho chúng ta thấy được hình thức phức tạp, muôn mặt của
sự dối trá, và sự tai hại, nguy hiểm của nó.
Đức Phật đã nhận thấy rõ cái tầm phá hoại lớn lao của dối trá đời sống tập
đoàn, nên ngài đã ngăn cấm không cho đệ tử của ngài sử dụng cái khí giới tai
hại ấy.
Có người bảo rằng: "Sống trong xã hội ngày nay mà thành thật, ngay thẳng
quá thì không thể làm ăn được và dễ bị người ta lừa phỉnh". Do cái quan
niệm sai lầm ấy, mà không ai thành thật với ai cả; ai cũng tìm cách để lừa dối
người khác. Và cuối cùng xã hội là một trường nói dối, lừa đảo nhau, không ai
còn tin ai được nữa.
Mỗi người sống với một lớp sơn bên ngoài, với một cái mặt nạ, với những lời nói
không phát ra tự thâm tâm của mình, những cử chỉ điệu bộ mượn chát, chẳng khác
gì những kịch sĩ trên sân khấu!
Cuộc đời đã bị vô minh che lấp bản tánh chân thật, làm cho loài người đã điên
đảo khổ đau, lại còn bị sự lừa đảo dối gạt, bưng bít sự thật nữa, thì không
biết đến bao giờ loài người mới tìm thấy được sự an vui, thanh tịnh.
Cho nên ngăn cấm sự dối trá là một điều cần thiết, để nhân loại lần hồi tìm
hiểu biết nhau hơn, để cõi đời không còn là một chợ đời gồm những kẻ buôn dối
bán trá nữa.
5.- Phương thuốc thứ năm mà đức Phật dùng để ngăn ngừa bệnh si mê, cuồng
loạn:
Là sự cấm tuyệt đệ tử của ngài ăn uống những thức ăn có chất làm rối loạn trí
óc. Tất nhiên ở đây chỉ mới ngăn ngừa không cho si mê thêm, chứ chưa phải là
trừ tuyệt được si mê. Muốn trừ tuyệt si mê, cần phải tu học nhiều hơn nữa.
Nhưng đối với những kẻ sơ cơ, ngăn chận không cho sự si mê cuồng loạn khuấy phá
cuộc đời thêm nữa, cũng đã quý lắm rồi.
Trong các thức ăn uống làm rối loạn trí óc, rượu là thứ nguy hiểm nhất. Những
tai hại do rượu gây ra cho nhân loại không thể nói hết. Những cuộc cãi vã đánh
lộn phần nhiều đều có hơi rượu pha vào; các cuộc chém giết, các tai nạn xe cộ
đa số có bóng dáng của ma men. Những đứa con khẳn khiu, khờ khạo, mất trí, điên
cuồng phần nhiều là nạn nhân của tửu thần.
Trừ rượu là trừ được một phần lớn những nguyên nhân gây rối loạn cho chính
mình, cho gia đình và xã hội.
Về phương diện cá nhân, người không uống rượu tránh được nhiều điều hại như:
không mất tiền của, ít mang bệnh tật, không sinh lòng ác độc, ít nóng giận, trí
tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao...
Về phương diện đoàn thể, mọt gia đình không có người rượu chè, thì gia đình
được an vui, con cái ít bệnh tật ngu đần, một xã hôi không có người nghiệm
rượu, thì xã hội ấy được hòa bình, nói giống được hùng cường.
PHẦN TỔNG KẾT
Năm phương thuốc trên này, không nói, chắc bạn cũng biết đó là "Ngũ giới", năm điều răn cấm của đức Phật đối với hàng Phật tử tại gia. Nó không có gì cao siêu huyền bí. So sánh với đạo Nho, thì nó chẳng khác "Ngũ thường":
- Không
sát sinh chính là Nhân.
- Không trộm cướp chính là Nghĩa.
- Không tàm dâm chính là Lễ.
- Không uống rượu chính là Trí.
- Không nói dối chính là Tín.
Nhưng
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín không được minh định một cách rõ ràng dứt khoát,
khẳng định như ngũ giới. Ngũ giới có thể áp dụng chung cho tất cả mọi người;
chứ ngũ thường chỉ riêng có kẻ sĩ, người quân tử mới hiểu rõ và làm được.
Ngũ giới, mặc dù là những giáo điều của đức Phật đối với đệ tử của ngài, nhưng
vẫn có thể đem ra áp dụng chug cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp, mọi dân tộc,
mọi quốc gia trên thế giới.
Chúng ta có thể ước ao rằng: nếu toàn thể nhân loại đều áp dụng ngũ giới, thì
bộ mặt của thế giới này hoàn toàn thay đổi một cách vô cùng tốt đẹp.
1.- Mọi cuộc chém giết sẽ không diễn ra hàng ngày, máu sẽ không đổ, thịt không
rơi; nhân loại sẽ không xô đẩy nhau vào lò sát sanh của chiến tranh.
2.- Không ai lo sự bị mất mát, cướp giật của cải; vật để rơi không ai lấy, ban
đêm cửa không cần đóng, tiền bạc không cần thu dấu... Lao tù không cần phải xây
dựng, vì không có tù nhân trộm cướp và thế giới các nước không còn xâm lăng lẫn
nhua.
3.- Những cảnh tượng dâm dật, cưỡng hiếp, những cuộc ghen tương, chép giết nhau
giữa tình địch không xảy ra. Chồng vợ sống với nhau trong lễ nghĩa, chung thủy;
con cái được sum vầy trong gia đình với cha mẹ, anh em.
4.- Những cảnh dối trá, lường gạt không diễn ra hàng ngày. Từ trong gia đình ra
đến xã hội, từ những cuộc hùn hạp nho nhỏ cho đến những công ty lớn lao, ở đâu
người ta cũng tin cậy nhau, trung thành với nhau. Những tình cảm chân thật được
phát lộ, mọi lòng dạ được cởi mở, hòa vui.
5.- Những cảnh tượng tàn phá rùng rợn, bỉ ổi do ma men khuấy động sẽ được chấm
dứt. Loài người sẽ hoạt động trong sự yên vui bình tĩnh của tâm hồn, trong sự
sáng suốt của trí tuệ.
Một thế giới đẹp đẽ như thế, cũng có thể gọi được là "thế giới hoàng
kim" lắm phải không các bạn?
Vậy chúng ta, mọi người, còn đợi gì nữa mà không thi hành ngũ
giới, "năm yếu tố hòa bình của Phật giáo".
Viết xong ngày rằm tháng bảy, năm Tân Sửu (1961)