Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Bộ Nghiên Cứu Tự Đức Thánh Chế Tự Học

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12083)
Sơ Bộ Nghiên Cứu Tự Đức Thánh Chế Tự Học

SƠ BỘ NGHIÊN CỨU TỰ ĐỨC THÁNH CHẾ TỰ HỌC

CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19


Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch


1. Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu, những sách này do người Hán soạn (như Nhất thiên tự, Tam tự kinh…) hay do chính người Việt biên trứ. Trong số những sách vỡ lòng được sử dụng phổ biến nhất trong trường học của các học giả Việt Nam, có “những cuốn từ điển mang tính văn hóa” [Nguyễn Đình Hòa 1987] như Nhất thiên tự [NĐH 1963 & 1989], Tam thiên tự [Nguyễn 1973 & 1989], Ngũ thiên tự… Đây thường là những tác phẩm của các tác giả khuyết danh, là bảng kê chữ Hán và các từ tương đương trong tiếng Việt, được trình bày bằng thơ, có thể là sử dụng lục bát hay tứ ngôn, các thể thơ này tồn tại với tư cách là phương thức học thuộc lòng và giúp nhớ chữ.

 Vua Tự Đức (1829 - 1883) triều Nguyễn (1802 - 1945), người đã trị vì từ năm 1847 đến năm 1883, nổi tiếng với tư cách của một nhà Nho uyên bác, ông viết cuốn từ điển Hán Việt bằng thể thơ lục bát: Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Bài viết cố gắng phân tích chi tiết cuốn từ điển song ngữ này thông qua việc giới thiệu những nét đại quan về cấu trúc của chữ Nôm và thảo luận xem chữ Nôm ghi âm tiếng Việt thời đó như thế nào và các phương thức vay mượn đã ảnh hưởng đến việc dạy tiếng ra sao ở một đất nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán trong suốt giai đoạn dài như vậy.

 2.Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca được khắc in năm 1898, nhưng cũng giống như các tư liệu khác, văn bản này đã được chuyển khỏi Hà Nội vào năm 1954 và lưu trữ tại chi nhánh Đà Lạt, Thư viện Quốc gia Nam Việt. Hai thập kỷ sau, hai bản in mới của cuốn tự điển này đã được xuất bản, hai bản này đều được biên tu và phiên âm toàn bộ sang quốc ngữ, một bản của giáo sư Trần Kinh Hòa (Hồng Kông 1971) và một bản của Phương Thủ Nguyễn Hữu Quỳ (Sài Gòn 1971).

 Trần Kinh Hòa, giáo sư thỉnh giảng môn lịch sử tại đại học Huế từ năm 1958 đến năm 1962, chủ nhiệm Quỹ dịch thuật các tư liệu lịch sử triều Nguyễn, đã phiên âm toàn bộ văn bản này trong cuốn Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca dịch chú (Đại học Hồng Kông 1971). Bản sau do Nguyễn Hữu Quỳ thực hiện, xuất bản dưới sự tài trợ của Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa; bản này chỉ cung cấp bản phiên Nôm phần đầu của quyển 2 Kham dư cùng với nguyên bản của năm quyển đầu, tức là chỉ có Kham dư và ba phần của Nhân sự. Mặc dù những chú thích giá trị của Nguyễn Hữu Quỳ đã đưa ra một số từ ghép dưới mỗi một tự mục Hán, nhưng những phân tích trong bài viết này chỉ dựa trên văn bản phiên âm của Trần Kinh Hòa [177-392] và phần phụ chú [393-404].

 3. Vua Tự Đức (tên là Hồng Nhậm, miếu hiệu là Dực Tông) là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị (miếu hiệu là Hiến Tông, trị vì từ năm 1840-1847). Trong khi hoàng tử Hồng Bửu (anh trai ông) là một người ham vui thì Hồng Nhậm lại tỏ ra thông minh ham học, phụ hoàng đã trao ngôi báu cho ông khi ông mới mười tám tuổi. Trong suốt 36 năm dưới triều Tự Đức, quân Pháp đã chiếm đánh Đà Nẵng (1858), sau đó là ba tỉnh miền Đông (1862) và ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867) trước khi bắc tiến chiếm Hà Nội và thiết lập chính quyền bảo hộ trên toàn cõi An Nam (1884). Cũng giống như các tiền vương Minh Mạng (1820- 1840) và Thiệu Trị (1840-1847), những người đã để lại các thi văn tập cho đời sau, Tự Đức cũng được biết đến bởi kiến văn uyên áo cũng như sự phản đối quyết liệt đối với đạo Thiên Chúa. Đắm mình trong Khổng học, ông là tác giả của Việt sử tổng vịnh (1877) gồm mười cuốn thơ về lịch sử Việt Nam và tám thi tập khác. Nhưng không ở đâu, những quan tâm sâu sắc của ông đến giáo dục lại thể hiện rõ ràng như trong Luận ngữ thích nghĩa ca Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Tập sách sau được bộ Lễ trình lên vua Thành Thái (1889- 1907) vào năm 1896 và được khắc in sau đó (từ 1898) theo đúng như di nguyện của Tự Đức-người khởi xướng, tức là mười lăm năm sau khi ông băng hà.

 4. Như cuốn Nhất thiên tựNgũ thiên tự, cuốn tự điển này (mà văn bản do chính Tự Đức chọn) dùng thể lục bát (gồm chữ Hán đọc theo âm Hán Việt và lời chua nghĩa bằng chữ Nôm được xếp liền kề nhau):

Thiên

=

trời

địa

=

đất

vị

=

ngôi

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phú

=

che

tái

=

chở

lưu

=

trôi

mãn

=

đầy

 

 

 

滿

 

Cao

=

cao

bác

=

rộng

hậu

=

dày

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thần

=

mai

mộ

=

tối

chuyển

=

xây

di

=

dời

 

 

 

 

 tam_thien_tu 5. Theo từng liên, từ cuối cùng của câu sáu (ngôi) bắt vần với từ thứ sáu của câu tám dòng sau (trôi), rồi từ thứ tám - từ cuối của câu tám (đầy) lại bắt vần với từ cuối cùng – từ thứ sáu của liên tiếp theo (dầy), và đến lượt từ này bắt vần với từ thứ sáu của câu tám (xây). Thi luật thể thơ này quy định chỉ dùng thanh bằng, không dùng thanh trắc. Hơn nữa, với dòng thứ hai trong liên, nếu từ thứ sáu (trôi) là thanh ngang thì từ thứ tám (đầy) là thanh huyền [Huỳnh Sanh Thông 1979:xxxii-xxxiii; Nguyễn 1989]. Tuy nhiên, một số dòng trong cuốn từ điển này không tuân theo luật bằng trắc trên.

 Cấu trúc nội tại của các liên sáu tám đã tiềm ẩn sẵn trong dân ca, có lẽ thể thơ lục bát là sự thành công từ những phép lặp bất tận của các liên sáu tám này, như thơ Nôm (Truyện Kiều) chẳng hạn hay như các cuốn từ điển như Nhất thiên tự, Ngũ thiên tự… và cả cuốn từ điển ngự chế này.

 6. Phần đầu của cuốn sách ghi lời tưởng nhớ của bộ Lễ và Quốc sử quán. Tác phẩm được soạn theo bảy mục; 1.Kham dư 堪輿 cuốn 1-2; 2.堪輿 cuốn 1-2; 2.Nhân sự 人事 cuốn 3-5; 3.人事 cuốn 3-5; 3.Chính hóa 政化 cuốn 6-7; 4.政化 cuốn 6-7; 4.Khí dụng 器用 cuốn 8-9; 5.器用cuốn 8-9; 5.Thảo mộc 草木 cu?n 10-11; 6.草木cuốn 10-11; 6.Cầm thú 禽獸cuốn 12; 7.Trùng ngư 蟲 魚cuốn 13. Mỗi trang chia năm cột, đọc từ phải sang trái. Mỗi cột có từ ba đến bảy chữ Hán (tính theo ngôn ngữ nguồn). Mỗi chữ Hán khắc to đều có chữ Nôm (khắc nhỏ hơn) liền ngay dưới mé phải. Có thể có một số chú thích (khắc nhỏ nhất) liền ngay sau để chua nghĩa cho những chữ Hán khó, âm đọc của những chữ này thường được chú bằng một từ đồng/gần âm hoặc bằng hai từ theo phép phiên thiết.

 7. Trong cả Tam thiên tự Ngũ thiên tự, câu lục có ba chữ Hán, câu bát có bốn chữ Hán; ví dụ trên cũng như vậy, dòng đầu giới thiệu ba chữ thiên, địa, vị, dòng dưới là bốn chữ phú, tái, lưu, mãn và trọng âm rơi vào các âm tiết chẵn hai, bốn, sáu, tám. Tuy nhiên, các dòng thơ không phải lúc nào cũng được cấu trúc theo lối như vậy: có năm trường hợp câu sáu trong cuốn sách chỉ có hai chữ Hán, vì cả trước và sau chỗ ngắt giọng có cụm ba âm tiết, trong đó từ Nguyệt (hữu trọng) được chua bằng từ song tiết Mặt trăngnhật- mặt trời. Tương tự như vậy, dòng bảy gồm hai vế đối nhau được chia đều bằng nhịp ngắt giọng ở giữa: sócmồng một, vọng ngày rằm 朔蒙没,望勜斚. Dòng mười cũng theo luật ấy, chỗ ngắt giọng chia câu thành hai vế tiểu đối bốn âm tiết bằng nhau: ngũ giờ chính ngọ, giờ quá trưa 日午, Nhiều dòng chỉ có giải một chữ, như: muội khi ban sáng lờ lờ ; hay như: dâm là mưa quá mười ngày chửa thôi 氵蕌; hay như: lâmlà mưa tự ba ngày trở lên 羅氵蕌自. Một điểm mạnh của cuốn từ điển này là “tác giả của nó đã gia công sử dụng một lượng lớn tính từ và trạng từ để định nghĩa danh từ và động từ, điều này hết sức hữu ích đối với những người học chữ Hán”. [ Nguyễn Hữu Quỳ 1971:6]. Thực tế, một số tự mục đòi hỏi không chỉ có từ tương đương trong ngữ đích mà còn yêu cầu những định nghĩa dài dòng giới hạn trong thể sáu tám. Người đọc tưởng như đang nghe thầy giáo giảng bài với những định nghĩa súc tích về các từ Hán Việt (đơn tiết, song tiết). Điều này rất thích hợp với phương pháp học thuộc lòng được sử dụng trong các lớp học xưa ở Việt Nam, nơi mà một trường tư thục do một số cá nhân (thầy đồ) trong làng thành lập để khai tâm cho con trẻ.

 8. Cho đến tự biểu Hán Việt được chú ý, cuốn từ điển chuyên đề này đã giới thiệu trên dưới chín ngàn tự mục, hầu hết là các từ đơn tiết, một số là “các từ kép”, ví như từ đa tiết kết hợp giữa danh từ và động từ. Đáng chú ý là các tự mục sau: long đồng 曨曈 được định nghĩa là mặt nhật độ gần sáng ra [Ch’en 183], cv đồng lông trong Thiều Chửu [1942:276,277]. Long đồng 朧月童- trăng mới lờ mờ rạng đông [Ch’en 185]. Hàng giới 沆瀣-khí mù nửa đêm [Ch’en 184]; cv hãng dới trong Thiều Chửu [1942:335]. Tích lịch  - tiếng gió [Ch’en 184]. Long tòng - khí mây [Ch’en 184]. Biệt biệt - mặt nhật chen chen lần vào [Ch’en 184]. Phái phái - mưa lớn [Ch’en 184] cv bái bái trong Thiều Chửu [1942:750]. Châu trương 目壽目長- mắt máy [Ch’en 217]. Liêu yếu - tai bùng [Ch’en 217]. Sảo sảo 身少身少 - dáng dài mình [Ch’en 217]; phản noản - dáng mặt nhăn [Ch’en 217]; ảo xảo - mặt méo [Ch’en 217]; huyền vân - mắt lòa [Ch’en 217]; bát thích  – cái áo tơi[Ch’en 310]; thu thiên  – đu rút [Ch’en 310]; lan lao liên lũ 口連- nói bàn líu lo[Ch’en 232].

 Với tư cách là một cuốn tự điển chuyên đề hoặc tự biểu, cuốn sách này đã cung cấp một lượng lớn vốn từ vựng về bộ phận cơ thể (tóc, răng, tai…), thực phẩm, đồ gia dụng [Ch’en 250], nhân luân, bệnh tật, trên ba mươi loại thuyền [Ch’en 295], xe cộ [298], vật phẩm, khí dụng [313-315], … Chỉ có một số hư từ (công cụ từ) được tìm thấy trong đó: ví dụ hai dòng dưới đây giới thiệu bảy từ Hán cổ: giảấy vậy vay, hồ ôi chỉ vậyta nàyý kia (,).

 9. Các từ tương ứng ở ngữ đích có khi không được kê ra trong cuốn sách, mà thay vào đó một câu giải thích đặt sau hệ từ “là” trong một câu định nghĩa theo phương trình X = Y, như: chí lễ vật cầm tay[Ch’en 283]; giao  là đắp đàn tế trời[283]; lữ   là lễ tế sơn xuyên [283], vu  là lễ tế cầu mưa[283]. Liên từ “rằng ” cũng được dùng để định nghĩa: sao rằng ngọn tóckiến 月建 rằng đầu gân[217]. Cả “là” và “rằng” được dùng trong một câu: độn là đi trốn, nô rằng ở thuê[275]. Quan hệ từ “mà ” cũng được dùng trong những câu định nghĩa diễn giải khi nó nối hai động từ với nhau: như trong: thụy ngồi mà ngủ, lưu nằm mà trông[223]. Đôi khi dùng so sánh như dòng mô tả sau: thục 木兄 hình như thể cái thùng[297]. Một số ít trường hợp, câu bát lại có chín từ, do các âm vô quy tắc, ví dụ: mạt 食末 là đuôi ngựa, bộc người hầu ngựa xe[287].

 10. Cuốn từ điển song ngữ này còn hơn cả một bảng từ, nó còn cung cấp các tự vị của tiếng Việt thế kỷ 19 và tự dạng Nôm của chúng. Một ví dụ là chữ buông lung 木奔籠 được dùng để dịch từ Hán dịch đảng (là kẻ buông lung khác người). Hay như từ nốc (thuyền nhỏ) [295] và xấp xỏa [297] mà âm hiện nay là chập chõa/chập cheng. Hai bản in thường đưa ra âm phiên (âm Hán Việt và âm Nôm) và tự dạng Nôm khác nhau, ví dụ như: 朒羅嶎朔斏筃, 月羅嶎晦斏群渉西, có hai bản quốc ngữ khác nhau: nục là bữa sóc trăng non, thiếu là bữa hối trăng còn mái tây [Ch’en 182] và Nọc đêm sóc trăng non; chiếu đêm hối, trăng còn mái tây [Nguyễn Hữu Quỳ 87].

 11. Chữ Nôm dùng để ghi từ “ruộng” và “well” cung cấp một cứ liệu thú vị về sự phát triển loại văn tự bình dân này: từ dùng để ghi từ ruộng, còn được tìm thấy trong Bảng tra chữ Nôm [1976] nhưng không thấy trong Tự điển chữ Nôm [1971], dường như phản ánh ngữ âm Trung Bộ xưa gần với âm lộng , trong khi tự dạng khác phản ánh âm / uô / của miền Bắc, âm này gần với âm / wa / của từ quảng (phần thanh phù của chữ Nôm này) hơn.

 12. Ch’en [1971:17] cho rằng: tự biểu này hay hơn Nhất thiên tự, Ngũ thiên tự- những tác phẩm mà vua Tự Đức dựa vào đó để ngự chế tác phẩm này. Chúng ta cũng nhất trí với ông rằng: giống như hai tự biểu của tác giả khuyết danh trên - và cũng như Tam thiên tự mà Ngô Thì Nhậm (1786-1803) được coi là tác giả của nó, cuốn từ điển Hán Việt của vị vua của triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam này xứng đáng có thể được đặt cạnh nhau với tư cách là các tài liệu tra cứu tham khảo hữu dụng. Nó có thể được coi là “cuốn từ điển quan phương của triều Nguyễn xưa”, và chỉ ra hệ thống âm chuẩn của giáo dục thời bấy giờ [17]. Thực tế, đây còn là “cứ liệu chứng tỏ ước muốn của nhà vua và Nho sĩ nhằm dựng lại âm đọc truyền thống” , một mặt là để quy phạm hóa ngữ âm lưu hành trong giới quý tộc của đất thần kinh vào thế kỷ 19 [17]. Hơn nữa, những phân tích trên có thể phát lộ ra những yếu tố từ vựng và ngữ âm thú vị của tiếng Việt vào thời điểm đầu của giai đoạn thực dân.

NĐH.1995

TTD dịch

(Dịch từ nguyên bản tiếng Anh A Preliminary Study of TỰ ĐỨC THÁNH CHẾ TỰ HỌC- a 19th-Century Chinese-Vietnamese Dictionary của Gs.Nguyễn Đình Hòa đăng tải trên Mon-Khmer Study 26:207-216.www.sealang.net/mks/copyright.htm)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ch’en Ching Ho, ed. Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca dịch chú, Original Text and Transcription in chữ Quốc ngữ with Introduction and Annotation. Hongkong, The Chinese university of Hongkong, 1971.

Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt Từ Điển, Minh Tân, Paris, 1950 (Tái bản).

Huỳnh Sanh Thông, The Heritage of Vietnamese Poetry, New Haven, CT: Yale University Press, 1979.

Nguyễn Đình Hòa, Nhất thiên tự, Văn hóa nguyệt san 12.10. 1665-1678, 1963.

Nguyễn Đình Hòa. On “Cultural” Dictionaries in Vietnamese. Lexicographica.3, 1987, tr. 142-157.

Nguyễn Đình Hòa. 1989a. The Book of One Thousand Characters (Tam thien Tu). Carbondale, IL: Asia Books.

Nguyễn Đình Hòa. 1989b. The Book of Three Thousand Characters (Tam thien Tu) by Ngô Thì Nhậm. Carbondale, IL: Asia Books.

Nguyễn Đình Hòa, Graphemic Borrowing from Chinese: the Case of Chữ Nôm- Vietnamese’s Demotic Script. The Bulletin of the Institute of History and Philology. Academia Sinica. Vol.LXI, Part II. Taipei, Taiwan, China, 61: 383-432. 1990.

Nguyễn Đình Hòa, An 18th –Century Chinese-Vietnamese Dictionary: the Book of Three Thousand Characters. Paper given at the 183rd Annual Meeting of the Americal Oriental Society,1973.

Nguyễn Hữu Quỳ, Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, tập I, Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách văn hóa, Saigon, 1971.

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm [Tự Đức], Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, Huế, Quốc sử quán, 1898.

Nguyễn Quang Xỹ-Vũ Văn Kính, Tự điển chữ Nôm, Trung tâm học liệu, Saigon, 1971.

Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Đuốc Tuệ, Hanoi, 1942 [tb: Khai Trí, Saigon, 1960].

Thompson, Laurence C. 1965. A Vietnamese Grammar. Seattle: University of Washington Press [Reprint Edition as A Vietnamese Reference Grammar (ed.Stephen O’Harrow), Honolulu: University of Hawaii Press, 1987.]

Viện ngôn ngữ học, Bảng tra chữ Nôm, , Khoa học Xã hội, Hanoi, 1976.

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Tám 201608:01
Khách
Xin lỗi, ông Trần Kinh Hòa là người Đài Loan.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14562)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14357)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13272)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14635)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12644)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25235)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27867)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26347)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17230)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16525)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15915)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22136)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17131)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24903)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21960)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19058)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16170)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16781)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14665)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16701)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18774)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14775)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14373)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16614)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12922)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14944)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12702)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14602)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28022)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27186)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14346)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20952)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24176)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28677)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14734)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13284)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16445)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27233)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16074)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21487)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12377)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
(Xem: 26221)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant