Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Tâm

29 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 6826)
An Tâm


CẢM NIỆM VỀ MẸ

(Kính dâng mẹ cụ bà Nguyễn thị Sáu)
Hư Thân Huỳnh Trung Chánh


cam_niem_ve_me

AN TÂM


Tuy không phải một thiền sinh chân chính, nhưng chú Sáu rất tôn quý hòa thượng Thanh Từ. Chú thao thức mong được hội kiến với hòa thượng, trực tiếp ngắm nhìn, lắng nghe hòa thượng ban pháp từ, và đôi khi tuy không hiểu thâm sâu lắm, chú Sáu vẫn cảm thấy đón nhận được sự tươi mát và niềm an lạc của hòa thượng từ một suối nguồn đạo đức vô hình nào đó tỏa ra, nâng đỡ chú thêm vững mạnh và tinh tiến trên con đường tu sửa thân tâm. Chính vì vậy mà khi hay tin hòa thượng sang Mỹ lần cuối cùng, trước khi vĩnh viễn nhập thất cho đến ngày từ giã cõi giả tạm nầy, tuy cư ngụ ở tiểu bang xa xôi, chú cùng bè bạn hâm hở rủ nhau về thiền viện Ðại Ðăng, thị xã Bonsall, Nam California, để chiêm ngưỡng thầy.

Tuy nằm sát vùng biển Oceanside ồn ào, nhưng thị xã Bonsall lại là một địa điểm tịnh dưỡng nhỏ bé, thanh vắng, với những sân golf, trường đua ngựa, trang trại huấn luyện ngựa đua, nhà nghỉ mát... quây quần quanh những ngọn đồi con lúp xúp, mỗi ngọn đồi tọa lạc một ngội biệt thư nguy nga, xanh um cây trái. Thiền viện Ðại Ðăng nằm trên triền đồi xinh xắn, có tầm nhìn rộng rãi quan sát phong cảnh thanh lịch khắp bốn phương. Chú Sáu tìm về Ðại Ðăng tương đối trễ, vào khoảng 11 giờ 30 sáng thứ tư 6.11.02, Phật tử khắp nơi đã quy tụ về đông đảo, bãi đậu xe đầy ấp, nhưng nhờ khuôn viên rộng rãi, Phật tử dè dặt lời nói, nên thiền viện vẫn giữ được vẻ thanh tịnh trang nghiêm. Ðây là ngày mà ban tổ chức dành riêng cho báo giới người Việt hải ngoại tiếp xúc phỏng vấn thầy. Phật tử ngồi san sát trong và ngoài chánh điện, xúc động lắng nghe từng lời giải đáp trong sáng của thầy, Chú Sáu nhận thấy có nhiều cặp mắt đẫm lệ, và tự hỏi có phải họ đã mũi lòng trước những lời dặn dò từ biệt thâm thiết của thầy chăng? Cuộc phỏng vấn sắp chấm dứt, Chú Sáu chỉ được nghe một ký giả trẻ thỉnh cầu thầy “ban cho lời dạy ngắn gọn nhứt để tu tập đạo giải thoát”. Thầy cười hiền hòa đáp “ngắn gọn thì không gì ngắn hơn câu chuyện an tâm của tổ Ðạt Ma dành cho Ngài Huệ Khả”. Rồi thầy tươi vui kể lại sự tích xưa. Buổi lễ kết thúc với sự hài lòng của tất cả mọi người

Nhờ được quý thầy cô hướng dẫn, Chú Sáu may mắn được diện kiến thầy vào buổi trưa. Thầy mĩm cười bảo : “Con lớn tuổi, trông hơi khác xưa!” Chú Sáu đảnh lễ, lặng lẽ ngắm nhìn thầy thật kỹ để đón nhận lòng từ bi thánh thiện của thầy tỏa ra ngoài, rồi xin phép lui ra. Ðối với chú Sáu, giây phút diện kiến thầy thật tuyệt vời, chú không muốn lên tiếng để phá tan nguồn xúc cảm dâng tràn, đang và sẽ nâng đỡ chú tinh tấn hơn trên con đường tu tập. Chú Sáu lưu lại hai ngày để có dịp tham dự thực tập thiền và cũng để tham dự buổi lễ xuất gia được tổ chức trang nghiêmcảm động cho hơn bốn mươi tân sa di, sa di ni.

Khi Chú Sáu vừa về đến nhà, chưa kịp nghỉ ngơi thì có anh bạn pháp danh Tâm Không liên lạc viếng thăm. Vốn là đệ tử trung thành của hòa thượng, anh thiết tha chờ đợi thầy, nhưng nay gặp trường hợp bất khả kháng không di chuyển xa được, đành háo hức chờ bạn về để hỏi han tin tức nóng hổi tại Ðại Ðăng. Anh bị tai nạn lưu thông tháng trước, không thể tự lái xe, nên nhờ Hải, người con lớn đưa đến. Hải ké né ngồi một góc. Chú Sáu bảo anh ta tự nhiên xem truyền hình, để đỡ nghe câu chuyện của hai ông già, mà chú tin chắc rằng anh ta rất chán ngán. Tâm Không rối rít hỏi han lung tung từ chuyện sức khỏe của hòa thượng, đoàn tăng ni tháp tùng, lịch trình hoằng pháp, tương lai thiền phái sau khi thầy nhập thất vĩnh viễn...anh lại chuyển câu hỏi sang Ðại Ðăng, Ngọc Chiếu...vân vânvân vân, khiến Chú Sáu chới với trả lời hụt cả hơi, mà dường như Tâm Không vẫn chưa thỏa mãn. Câu chuyện tưởng chừng sắp kết thúc, bỗng anh ta lại lên tiếng

- Còn vụ họp báo như thế nào? Sao chẳng nghe anh kể chi tiết nào cả?
- Ơ! Tôi đến trễ, nên chỉ nghe kể lại là diễn tiến buổi phỏng vấn rất tốt đẹp. Ngoài ra, đích thân tôi chỉ nghe một cậu ký giả yêu cầu thầy ban một lời pháp “ngắn, gọn nhứt để tu tập đạo giải thoát!”. 
- Trời! Tu giải thoát mà đòi ngắn gọn! Hóc búa thật! Rồi thầy đáp như thế nào? 
- Tôi chỉ nhớ đại khái là thầy ôn tồn đáp : “Ngắn gọn nhứt thì có lẽ phải kể đến câu chuyện ngộ đạo của Ngài Huệ Khả. Nguyên sau khi theo tổ Ðạt Ma tu tập một thời gian, một hôm Ngài Huệ Khả(1) thỉnh tổ : “Tâm con chưa an! Xin thầy dạy con pháp an tâm”; Tổ đáp : “Ngươi đem tâm ra đây ta an cho”; Huệ Khả thầm lặng hồi lâu rồi cất tiếng: “Con tìm tâm không thể được”. Tổ phán : “Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi!”
- Khâm phục! Khâm phục! Chỉ cần mấy lời vắn tắt mà thầy đã đưa ra được pháp tu cao vút tuyệt vời!

Hải đang vớ vẩn xem truyền hình, bỗng buột miệng chen vào :

- Con thì chẳng biết tuyệt vời ở chỗ nào cả! Con chỉ thấy tối mò! Chẳng đầu đuôi gì hết! Kẻ không tìm ra tâm thì được tổ tuyên bốan tâm rồi, là ngộ đạo! Sao mà dễ dàng quá, mà cũng kỳ dị khó hiểu quá! 

Tâm Không nghe con chen vào câu chuyện của người lớn “phát ngôn bừa bãi” đụng chạm đến bậc cao tăng đạo hạnh, vừa tức, vừa thẹn, mặt đỏ bừng, nghiến răng kẹt kẹt mà không thốt được tiếng nào. Có lẽ Hải không ngờ lời phát biểu của mình khiến ông già giận dữ chừng ấy. Anh ta thộn mặt chẳng biết phải đối đáp thế nào cho ổn. Cuộc đàm luận bỗng trở nên ngột ngạt khó thở. Thật ra, Hải không phải là một thanh niên hỗn láo, anh lớn lên và được dạy dỗ theo lề lối Hoa Kỳ, là ai cũng có quyền tự do phát biểu ý kiến, nên anh nghĩ sao thì nói vậy mà thôi. Chú Sáu hiểu tâm lý bọn trẻ, là phải giải thích suy luận hợp lý thì may ra chúng mới tuân phục, chớ không thể dở trò đàn áp theo lối “cả vú lấp miệng em” như ở Việt Nam được, nên cười giả lả lên tiếng :

- Cháu Hải ạ! Cùng một sách lược chánh trị y hệt nhau, nhưng nếu lời nói do một người dân quèn đề xướng thì chẳng ai quan tâm, ngược lại nếu do một vị nguyên thủ quốc gia tuyên bố thì sẽ phát ra một huy lực mạnh mẽ. Ðiều đó đúng không cháu?

- Ðúng lắm!

- Cũng vậy đó cháu ạ! Nếu cháu đích thân chiêm ngưỡng phong thái tự tại an nhiên của bậc cao tăng giác ngộ, nghe âm hưởng thoát tục thâm nhập lỗ tai mình, thì chắc chắn cháu sẽ cảm nhận ý nghĩa thâm sâu mầu nhiệm của câu chuyện hơn. Chớ giờ đây cháu chỉ nghe ông già lù khù đạo đức kém cỏi như chú kể lại, thì dĩ nhiên cháu thấy tối mù là phải rồi.

Hải nhún vai, cười khẽ ra vẻ không đồng ý, rồi lên tiếng :

- Bác nói vậy thì cháu nghe vậy, chớ... cháu khó nói quá!... 

- Cháu cứ thẳng thắn trình bày, chú không phiền hà gì đâu?

- Thằng bạn cháu ở San Diego, có tham dự buổi họp báo trên đã điện thoại kể cho cháu câu chuyện nầy và than thở rằng “đã thử tìm tâm mà cũng chẳng thấy tâm đâu như Ngài Huệ Khả? Như vậy, liệu nó thưa với hòa thượng điều nầy thì nó được tuyên bố là đã an tâm, đãø giác ngộ không?”

- Thật ra, “người nói kẻ nghe” phải có một trình độ gần gũi nhau, thì mới thực sự có cuộc đối thoại. Cháu mà nói chuyện điện tử với bạn bè cùng bậc Cao Học điện tử như nhau dĩ nhiên hai người sẽ hiểu nhau ngay. Ngược lại, cùng đề tài đó cháu đem bàn bạc với chú trọn ngày thì chú cũng “bù trất”, chẳng thu thập được điều gì đâu. 

- Ý của chú là phải có trình độ gần bằng hòa thượng thì mới hiểu được chăng? Như vậy ngoài các bậc thượng căn thượng trí, xem ra rất hiếm hoi, có mấy người lảnh hội được câu chuyện nầy?

- Thật ra, như cháu biết đó, người ta đòi hỏi “một lời dạy ngắn gọn nhứt để thâm nhập đạo mầu”, thì Ngài đành chọn mẩu chuyện ngắn gọn nhứt có diệu dụng “chỉ thẳng chỗ rốt ráo” để trao truyền vậy thôi! Dĩ nhiên, muốn đón nhận lời dạy nầy của Ngài thì ít nhứt cũng phải là một “hành giả tu thiền chân chính dấn thân cho sự nghiệp giác ngộ” thì mới mong thấu hiểu phần nào, cháu ạ!

- Tóm lại, vẫn là phải dày công tu tập thì mới lảnh hội nỗi mẩu chuyện đạo cao siêu của Ngài phải không bác? 

- Cũng không hẳn là như thế cháu ạ! Thật ra, một thiền sinhsơ cơ nhưng đã có vài kinh nghiệm trong sự nghiệp “chăn trâu” của mình, thì cũng có thể hiểu được đôi chút cháu ạ!

- Kỳ lạ thật, kinh nghiệm chăn trâu, mà phát triển được cái khả năng nầy sao?

- Chăn trâu là một thuật ngữ thiền, trâu tượng trưng cho tâm, chăn giữ trâu có nghĩa là tu sửa tâm vậy thôi! Sự nghiệp tu thiềnsự nghiệp tu tâm, vậy nếu người ta ví von gọi là sự nghiệp chăn trâu thì cũng không phải là lạ!

- À! Cháu có nghe nói đến 12 bức tranh chăn trâu của nhà thiền, thì ra 12 bức tranh đó chính 12 bức địa đồ để tu sửa tâm phải không bác?

- Cháu hiểu đúng lắm! Cháu thử quan sát phóng ảnh của 12 bức tranh chăn trâu treo trên tường, để có chút ý niệm về quá trình tu tâm của nhà thiền.

Chú Sáu chỉ Hải bức tranh thứ nhứt, rồi tiếp lời : 

- Ðây là bức tranh có nhan đề là “Tìm trâu”. Ở đây, người hành giả sơ cơ tuy đã ý thức rằng tu là điều phục tâm, nhưng tâm vô hình tướng, hắn ngẩn ngơ nhìn quanh mà chẳng thấy dấu vết . Tranh thứ nhì nhan đề “Thấy dấu chân trâu” không vẽ cảnh bên ngoài mà chỉ có một mình hành giả hăng hái săn tìm ra mấy dấu chân trâu. Ở đây, anh ta đã hiểu là phải tìm kiếm tâm ở bên trong. Nhờ biết nhận xét, tuy anh chưa khám phá ngay tâm tham, sân, si... đang xuất hiện, nhưng khi nó biến dạng thì những dấu vết tai hại, những đổ vở chua xót của nó vẫn còn lưu lại, thế rồi anh bắt đầu thấy vết chân trâu. Sang tranh thứ ba thì mới “thấy trâu” được phần đuôi, sang tranh thứ tư, thứ năm thì hành giả “được trâu” và đích thực “chăn trâu”.

Hải ngắm tranh thứ tư rồi cười nắt nẻ lên tiếng :

- Con trâu nầy coi bộ hung dữ quá mức a!

- Ðúng vậy, khi vọng tâm tức con trâu mới hiện nguyên hình thì nó hoang đàng hung hản lắm, vì vậy hành giả phải dùng “vàm thiền” cột trâu tâm lại một chỗ không cho loạn động, lại cũng dùng “roi giới” canh giữ, thì lần lần con trâu tâm mới thuần thục... Khi vọng tâm đã điều phục rồi, thì roi, vàm, công phu hay giới luật không còn cần thiết nữa, người mục đồng thong dong cỡi trâu về nhà... đây là cảnh giới mô tả bởi bức tranh thứ sáu.

- Uả! Sao trong tranh thứ bảy không có trâu? Nó trốn đâu mất vậy bác?

- Do tâm khởi vọng nên mới thấy được bóng dáng vọng tâm, nếu không còn khởi vọng thì con trâu tâm lặng lẽ biến dạng, bức tranh thứ bảy vì vậy có tên là “Quên trâu còn người”. Tranh nầy có thể phản ảnh phần nào tâm trạng của Ngài Huệ Khảhòa thượng đã kể ra đó. Sau bao năm tu hành, Ngài không còn khởi vọng nữa, nhưng vì Ngài chưa buông bỏ hoàn toàn vọng tâm, bóng dáng nó vẫn lảng vảng nên sanh tâm bất an. Ðến khi Tổ Ðạt Ma bảo Ngài đưa tâm để Ngài an, thì Huệ Khả mới sực tỉnh, hiểu tâm bất an cũng là vọng, nên buông bỏ, và vọng tâm không còn lảng vảng nữa, nên mới thưa rằng “Con kiếm mãi không thấy tâm đâu”, đến đây tổ Ðạt Ma bèn tuyên bố : “Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi”. 

- Ngộ thiệt! Khi mình chưa biết tu thì không thấy, không biết tâm, khi tu đến mực độ không còn khởi vọng, thì lại cũng không thấy tâm ở đâu cả! Hai tâm trạng nầy xem ra giống nhau quá! A ha! Tuy giống nhau mà thật ra lại khác hẳn một trời một vực phải không bác?

- Ðúng vậy cháu! Người chưa tu và người đắc đạo cũng có điểm giống nhau, thế nên thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín mới tuyên bố : “Khi chưa học thiền thấy núi là núi, thấy nước là nước. Sau khi được thiện tri thức chỉ cho chỗ vào thì thấy núi chẳng là núi, nước chẳng là nước, nay khi nhập vào chỗ tịch tĩnh rồi thì thấy núi chỉ là núi, nước chỉ là nước mà thôi!”.

- Thế còn ba bức tranh còn lại ý nghĩa như thế nào vậy bác?

- Khi vọng tâm biến dạng thì chân tâm hiển bày, đây là chỗ chư tổ kiến tánh, chứng ngộ bản lai diện mục vô thủy vô chung, là lảnh vực vô ngôn không thể nghĩ bàn nên chỉ tượng trưng bằng một vòng tròn, đó là ý nghĩa của bức tranh thứ 8, tức “trâu người đều quên”. Sau khi đã kiến tánh rồi, thì tiếp đến giai đoạn sống thực với cái mình đã ngộ. Hành giả, theo tranh thứ 9 là “về nguồn” tức là hội nhập với thiên nhiên trời đất, và theo tranh số 10 là “thỏng tay vào chợ” nghĩa là hội nhập với thế tục để độ đời. Nếu qui chiếu vào hành trạng của Ngài Huệ Khả, thì khi Ngài trình sở đắc của mình cho tổ Ðạt Ma bằng thái độ lặng lẽ lễ tổ rồi lui ra, là đã phản ánh đúng theo tranh thứ 8. Về sau, Ngài ẩn hình trong giới hạ lưu làm bạn với bọn đầu đường xó chợ, rồi đến cuối cuộc đời thì bị vu cáo, bị tù tội và chết trong ngục tù; đầu đường xó chợ hay ngục tù, trong hoàn cảnh nào tổ cũng ung dung hội nhập với đời, để sống thực với chân tâm mà cũng để tùy duyên cứu độ người. Hành hoạt của Ngài trong giai đoạn nầy có thể nói đã phản ảnh trọn vẹn các bức tranh số 9 và số 10 vậy!

- Nhờ bác giải thích, nay cháu mới hiểu đôi chút. Cháu xin hỏi thực bác nhé! Khi bác nghe hòa thượng ban thời pháp, bác có đạt được sự an tâm chưa, bác ngộ được điều gì kỳ diệu không?, Hải tinh nghịch hỏi tiếp.

- Ôi! Con trâu tâm của chú là thứ “Ngưu ma vương”(2) hung hăng thiên biến vạn hóa, chặt đầu nầy thì nó lại mọc đầu khác ngay, sơ sẩy là tung hoành lục tặc, nên dẫu chú chằng chằng chăn giữ bao năm nay mà có ăn thua gì đâu! Chăn trâu chưa ra trò trống gì mà bày đặt nói chuyện an tâm chuyện ngộ đạo, thì hoang đường quá phải không cháu?

Tháng 12.2002 

Hư Thân Huỳnh trung Chánh

Ghi chú : 

1. Nhị tổ Huệ Khả : Khi biết tổ Ðạt Ma đang diện bích tọa thiền tại chùa Thiếu Lâm, Ngài Thần Quang (tức Huệ Khả) tìm đến tha thiết cầu pháp nhưng bị tổ lạnh nhạt. Ngài đứng kiên trì dầm mình trong tuyết chờ đợi cho đến khi tuyết ngập gối mới được tổ thương tình lên tiếng

- Ngươi muốn cầu gì?

- Ngưỡng mong hòa thượng từ bi mở cửa cam lộ rộng độ chúng sanh.

- Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm làm được, khó nhịn nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, lòng đầy khinh mạn, há có thể chịu nỗi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa sao?

Thần Quang nghe quở liền rút dao bén, chặt cánh tay trái dâng lên tổ. Tổ bèn hỏi :

- Chư Phật lúc phát tâm cầu đạo vì pháp bỏ mình, nay ông chặt tay để cầu gì?

- Pháp ấn của chư Phật con có thể nghe được chăng?

- Pháp ấn chư Phật không thể nhờ người khác!

- Nhưng tâm con không an, thỉnh sư an tâm cho con.

- Ðưa tâm đây ta an cho!

- Con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm đâu cả?

- Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi đó!

Chín năm sau, trước khi tổ Ðạt Ma về Tây Trúc, tổ bảo chư đệ tử trình bày chỗ sở đắc. Ðao Phó thưa : “Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đó là chỗ sở dụng của đạo”. Tổ phán : “ Ngươi được phần da của ta”. Ni Tổng Trì bạch : “Chỗ thấy của con, nay như Ngài A Nan xưa kia thấy nước Phật A Súc một lần, chẳng còn thấy lại được”. Tổ phán : “ Ngươi được phần thịt của ta”. Ðạo Dục thưa : “Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng thật, chỗ thấy của tôi không có gì sở đắc hết”. Tổ dạy : “Ngươi được phần xương của ta”. Sau cùng, đến phiên Ngài Huệ Khả, sư đảnh lễ tổ, rồi lặng lẽ lui ra. Tổ tuyên bố : “Ngươi được phần tủy của ta”, rồi tổ trao truyền y bát cho Ngài Huệ Khả. Về sau, Ngài Huệ Khả ẩn hình dưới hạng hạ lưu cùng khổ, giao du với bọn đầu đường xó chợ để tùy duyên độ người. Có người thắc mắc hỏi : “Ông là đạo nhân sao làm như thế được”. Tổ đáp : “Ta tự điều tâm ta, có gì dính dấp đến ông mà hỏi?”

2. Ngưu ma Vương : là nhân vật tưởng tượng trong truyên Tây Du, vốn là con trâu trắng có tài thiên biến vạn hóa, khi bị chặt đầu thì liền mọc ngay đầu trâu khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19876)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20946)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19308)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40565)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21284)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41101)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24136)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23078)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17857)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26982)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20751)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33655)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21046)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28951)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12711)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25331)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19162)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17529)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25807)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19023)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19010)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29048)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18918)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33359)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38427)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31269)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18255)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24531)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19461)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17921)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23081)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18039)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32223)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17398)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17443)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16093)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18576)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20783)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18083)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20128)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14905)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20927)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15070)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15770)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12947)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14514)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14930)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14537)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant