Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

23. Con Đường Phật Giáo Đi Đến Ổn Định Kinh Tế

03 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6005)
23. Con Đường Phật Giáo Đi Đến Ổn Định Kinh Tế

NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO

Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch

VI. TỔNG QUÁT



23. CON ÐƯỜNG PHẬT GIÁO ÐI ÐẾN ỔN ÐỊNH KINH TẾ

 - Hòa Thượng Pannasha Maha Nayaka Thera


Chữ "Manussa", con người, có nhiều nghĩa khác nhau theo từ nguyên học đặt ra bởi những học giả đông phương trong quá khứ. Trong khi theo đại chúngtruyền thống tổng quát của người Ấn Ðộ truy nguyên từ chữ "Manu" tức huyền thoại tổ tiên của loài người, trong kinh điển Phật Giáo tìm thấy nguồn gốc từ 'mannasa-ussannataya-manussa' - con người vì lẽ do sự phát triển cao độ của tâm (so với tình trạng tinh thần kém mở mang, thô sơ và thấp kém của loài vật). Theo tư tưởng Phật Giáo con người được xếp hạng là chúng sinh cao nhất do tiềm năng rộng lớn của tâm con người.

Kautilya's Arthasastra và Brhaspati's Arthasastra - hai chuyên luận nổi tiếng về kinh tế - cả hai đều được viết sau đời Ðức Phật. Cả hai đều có nét đặc biệt chung - và đó là - dưới nhan đề 'Arthasastra', cả hai tác giả đều viết về chính trị và kinh tế, bỏ qua yếu tố quan trọng nhất của đạo đức và mở mang tinh thần của chính con người.

Theo ngôn ngữ Pali, 'attha' (Sanskrit: 'artha') - có nhiều hơn một nghĩa theo Phật Giáo, từ này có nghĩa thành công được dùng trong hai mức khác nhau, có nghĩa là attha' nghĩa thành công, và uttammastha' có nghĩa thành công siêu phàm. Nghĩa sau liên quan đến sự phát triển trí tuệtinh thần của con người do kết quả nhận thứckiến thức siêu trần của Tứ Diệu Ðế trong việc chinh phục cái ngã và đạt mức độ tinh thần toàn hảo A La Hán.

Nói chung, từ 'Attha' là thành công liên quan đến nhiều khía cạnh của sự phát triển xã hội-kinh tế của con người như kinh tế, chính trị, giáo dục, sức khỏe, luật lệluân lý trong xã hội. Nó cũng nói đến sự tiến bộ xã hội do sự thống nhất hòa hợp của tất cả các yếu tố trên, đóng góp cho sự thịnh vượng và sự chung sống hòa bình của một dân tộc.

Ngoại trừ trường hợp quản trị hợp pháp của Ðoàn Thể Tăng Già, không có bài giảng nào của Ðức Phật đề cập chủ đề trên từ những yếu tố về sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên đọc qua một số bài giảng (hay Kinh) có thể triển khai quan điểm hoàn toàn phù hợp và đầy đủ lập trường của Ðức Phật về mỗi chủ đề trên lấy ra từ nhiều bài thuyết giảng của Ngài. Một hệ thống kinh tế xã hội căn cứ vào nguyên tắc và thực hành Phật Giáo rất dễ dàng hình thành để phù hợp với xã hội tiến bộ hiện đại ngày nay.

Trong thời gian gần đây, nhiều sách đã được viết về đề tài kinh tế và lý thuyết kinh tế, tất cả đều từ quan điểm Tư Bản hay Xã Hội chủ nghĩa. Không có một hệ thống nào lưu ý đến hay xét đến sự phát triển nội tâm của con người, một yếu tố quan trọng trong sự phát triển xã hội. Vậy nên đã có sự hủy diệt nhanh chóng giá trị con ngườitiêu chuẩn hành xử của tất cả tầng lớp trong xã hội. Khoa học và kỹ thuật đã đạt những bước tiến khổng lồ đem người lên cung trăng, và chẳng bao lâu nữa sẽ tiến tới đem con người viếng thăm những hành tinh khác. Nhưng những nỗi lo sợ là nếu cái đà thoái hóa của tinh thần tiếp tục thì không bao lâu không có thể phân biệt hành động của con người với hành động của con vật. Sự sợ hãi này không phải vô căn cứ. Quả thật là một thảm kịch lớn nếu con người quay về thú tính, dù chỉ ở một trong những khía cạnh của cách hành xử thuộc về những con vật thấp kém. Như vậy, điều thế giới ngày nay cần là một hệ thống kinh tế xã hội vững vàng mang lại vị trí cao nhất cho việc phát triển tinh thần con người và việc trau dồi giá trị nhân loại.

Ðức Phật sống trong một xã hội hỗn độn và rối rắm bởi 62 quan điểm bất đồng và 108 loại tham dục. Có hàng trăm người đi tìm lối thoát khỏi những quan điểm rrối rắm này. Một dịp, Ðức Phật nhận được câu hỏi sau: (Kinh Jataka)
"Bên trong rối rắm và bên ngoài rối rắm -
Thế giới này rối rắm trong một mớ rối,
Ai là người thành công gỡ được mớ rối này?"
Ðức Phật giải thích tất cả những rối rắm này đều có tâm như người đi trước báo hiệu:
"Khi người trí, gây dựng tốt trong đức hạnh,
Phát triển ý thứchiểu biết,
Khi một tỳ kheo hăng hái và khôn ngoan.
Người như vậy thành công trong việc gỡ rối này."
Nhận thức được sự quan trọng của những yếu tố bên ngoài trong nỗ lực của con người về việc tự mình gỡ rối từ mớ rối nội tâm, Ðức Phật đưa ra nhiều bài thuyết giảng về những phương cáchphương tiện để khắc phục rối rắm bên ngoài. Một số giáo lý của Ngài chỉ có ý nghĩa với các thầy tỳ kheo. Một số những giáo lý khác chỉ có nghĩa với các người cư sĩ. Phần còn lại có ý nghĩa cả với các thầy tỳ kheocư sĩ, măc dù trong trường hợp cuối cùng, bài giảng trực tiếp nhắm vào các tỳ kheo. Trong một bài giảng, Ngài chấp thuận cho các tỳ kheo được nhận bốn món vật dụng cần thiết, đó là y áo, thực phẩm nơi nghỉ và thuốc men. Con người có thể sống không có những máy móc hiện đại ngừa thai, nhưng để đời sống tiếp tục, bốn thứ cần dùng này rất thiết yếu. Tài sản cho một người để có bốn thứ tất yếu đó và đạt được những nhu cầu khác.

Con Ðường Cao Quý Bát Chánh Ðạo được sắp xếp vào giá trị chính đáng, hành động chính đáng, giúp con người đạt cứu cánh cao nhất. Về ổn định kinh tế và hạnh phúc, hệ thống Phật Giáo nhấn mạnh đến ba yếu tố trong kinh Vyaggapajja:
  1. Uthana Sampada - Tạo dựng của cải do khéo léo và nỗ lực nghiêm túc.
  2. Arakkha Sampada - Bảo vệ của cảitiết kiệm
  3. Samajivikata - Sống trong phạm vi khả năng của mình.
1. Utthana Sampada -

Khi khuyến khích tạo dựng của cải, Ðức Phật nhắc nhở đến sáu công việc thịnh hành lúc bấy giờ:
  1. Nông nghiệp
  2. Thương mại
  3. Chăn nuôi trâu bò
  4. Quốc phòng
  5. Công chức
  6. Dịch vụ
Ấn Ðộ là một xứ nông nghiệp chiếm ưu thế. Cho nên trong các bài thuyết giảng nói đến nông nghiệp. Chẳng hạn trong Kinh Sadapunnappava-ddhana, có ghi cung cấp phương tiện dễ dàng tiến dẫn thủy nhập điền luôn có công đức. Trong Kinh Samyutta Nikaya ghi nhận tài sản vĩ đại nhất cho nông nghiệp là trâu bò, trong khi Kinh Nipatta, trâu bò cho con người sữa, bơ lỏng, sữa đông đặc, bơ và sữa nước, nhiều dinh dưỡng giá trị, được mô tả như những người bạn tốt nhất của xứ sở. Trong những nước đang phát triển, nước và năng lượng lấy ra do trâu bò cung cấp là những nhu cầu căn bản cho nông nghiệp.

Trong bài thuyết giảng về hạnh phúc cho người cư sĩ (gia đìnhxã hội) (Gahapati Sukha), trước nhất ghi sự thỏa mãn của người cư sĩ bắt nguồn từ sự sở hữu của cải bằng các phương tiện chính đáng (atthi sukha). Tuy nhiên, Ðức Phật cảnh cáo con người đừng nên có khuynh hướng trở nên nô lệ trong việc tích lũy của cải vì lợi ích cho riêng mình. Việc này sẽ dẫn đến khổ đau vật chấttinh thần sau này. Phương tiện đủ cho cuộc sống của mình và gia dình, giúp đỡ thân quyến và bạn bè, và phân phát cho những người thiếu thốn và những người đáng được giúp đỡ, sẽ dẫn đến sự mãn ýthỏa mãn nội tâm. Việc làm này đưa đến kết quả mở mang trí tuệtinh thần cho con người.

Trong kinh 'Kutadanta' Ðức Phật cho thấy hòa bình, thịnh vượng, không có tội ác đến với một xứ sở ra sao, do sự phân phát đồng đều của cải cho dân chúng.

Ngài nói: 'Này các Bà La Môn, xưa kia có một vị Vua tên là Vua Vương Quốc Rộng Lớn (Maha Vijita), hùng mạnh với của cải vĩ đại và tài sản rất nhiều vàng bạc đầy kho, cận thần vui vẻ, hàng hóa và ngũ cốc, kho báu và kho vựa đầy ắp. Nhà Vua ngồi một mình suy nghĩ và trở nên lo lắng với ý nghĩ: "Ta có mọi thứ mà con người có thể vui hưởng. Tất cả cái vòng tròn rộng lớn của trái đất này là của ta, của cải do ta chiến thắng. Vậy thì nếu ta chịu một sự hy sinh to lớn đem dâng hiến, ắt hẳn bảo đảm cho ta niềm sung sướnghạnh phúc dài lâu"'.

Thế rồi ông cho gọi vị giáo sĩ người Bà La môn và nói với vị giáo sĩ này tất cả những gì ông nghĩ. Ông nói: "Này Ông Bà La Môn, ta đành phải hy sinh lớn để hiến dâng - vậy giáo sĩ hãy chỉ cho ta phải làm sao - để có thể giữ của cảihạnh phúc của ta lâu dài".

Người Bà La Môn này, tức vị giáo sĩ liền thưa với vị hoàng đế: "Thưa Ngài, nước của Ngài bị quấy phá và cướp bóc. Có những giặc cướp có vũ trang từ ngoài nước đến cướp phá làng mạc và thành thị, gây mất an ninh trên các con đường. Thế mà bấy lâu, Hoàng thượng vẫn để nguyên, lại còn đánh thuế mới, quả thực Hoàng thượng đã hành động sai. Nhưng có lẽ Hoàng thượng nên nghĩ như thế này: Ta sẽ chấm dứt những trò chơi của các kẻ vô lại này bằng cách làm suy giảmxua đuổi chúng, bằng phạt vạ, gông cùm và tử hình! Nhưng sự phóng túng của chúng đâu có được thỏa mãn để làm như vậy. Những đứa còn lại chưa bị trừng phạt vẫn có thể đe dọa vương quốc. Nay có một phương pháp có thể áp dụng để chấm dứt sự lộn xộn này. Bất cứ ai trong vương quốc của Ngài tự tận tụy giữ trâu bò và nông trại, Hoàng đế cho họ thực phẩmhạt giống ngũ cốc. Bất cứ ai trong vương quốc của Ngài, tự tận tụy trong nghề buôn bán, hoàng đế hãy cấp cho họ tiền bạc và thực phẩm. Những người ấy có thể theo đuổi nghề nghiệp, họ sẽ không còn đe dọa vướng quốc của Ngài nữa; thu thập của nhà vua sẽ tăng trưởng; nước sẽ thanh bìnhan lạc, và dân chúng, người người đều vui vẻ với nhauhạnh phúc, bế con trong tay mà múa hát, sống trong nhà cửa mở toang.

Này Ông Bà la môn, nhà Vua Vương Quốc Rộng Lớn, chấp nhận lời của Vị Giáo Sĩ và làm đúng như vị giáo sĩ ấy nói. Những người ấy theo đuổi nghề nghiệp của mình, không còn quấy rầy vương quốc. Thu thập của nhà vua tăng trưởng. xứ sở trở nên thanh bìnhan lạc. Và dân chúng, người người vui vẻ với nhau sung sướng, bế con trong tay múa hát, họ vui sống trong nhà cửa mở toang.

Cho nên nhà Vua Vương Quốc Rộng Lớn cho gọi giáo sĩ và nói: "Sự lộn xộn nay đã chấm dứt. Nước nay trong an lạc! (- Ðối Thoại của Ðức Phật- Phần 1, trang 175 & 176).

2. Arakha Samapada

Ðiều này có nghĩa là hạnh phúc trần thế bắt nguồn từ sự bảo vệ liên tục của cải (đạt được chính đáng) khỏi trộm cướp, cháy, lụt vân vân... Bởi Ðức Phật đã tán dương đức hạnh cần kiệm, yếu tố này có thể được xem xét trong phần này.

Vay mượn thịnh hành trong thời Ðức Phật. Những người như Anathapindika (Cấp Cô Ðộc) là chủ ngân hàng thời bấy giờ. Kinh điển Phật Giáo nhắc đến ông ta cho nhà nước vay cũng như cho thường dân vay. Tuy nhiên, Phật Giáo không chấp thuận cho vay quá mức như một phương ngôn nói: "Vay mượn làm cùn lưỡi dao của nông nghiệp"- Ðức Phật tán thành một đời sống không nợ nần (anana sukha) dẫn đến hạnh phúc của người cư sĩ.

Trong Kinh Samanaphala, Ðức Phật so sánh Samanaphala (hay kết quả của đời sống ẩn dật) với hạnh phúc nơi một người mang nợ thoát khỏi nợ nần, và giúp đỡ gia đình con cái bằng tiền dành dụm của mình. Sự quan trọng của việc để dành tiền kiếm được được nhấn mạnh trong đường lối này. Nói chung Ngài hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng tiền kiếm được. Nhưng trong Kinh Sigalovada, Ngài đặc biệt khuyên nhủ Sigala, một trùm tư bản lớn, hãy chia tiền kiếm được ra làm bốn phần và tiêu một phần cho việc chi tiêu hàng ngày cho mình và gia đình. Hai phần đầu tư vào việc buôn bán, và phần thứ tư để dành một bên để sử dụng trong lúc khẩn cấp.

3. Samajivikata

Ðiều này là điều thứ ba trong ba nguyên tắc căn bản trong hệ thống kinh tế Phật Giáo. Một người nên tiêu vừa phải theo tỷ lệ lợi tức của mình, không nhiều quá mà cũng không ít quá. Trong bài thuyết giảng về hạnh phúc của người nội trợ, tiêu pha đúng cách và khôn ngoan là một trong bốn yếu tố dẫn đến hạnh phúc.

Trong kinh "Pattakamma" một người nên chi tiêu của cải của mình theo chi tiết như sau:
  1. Chi tiêu về thực phẩm, quần áo và các nhu cầu khác
  2. Nuôi cha mẹ, vợ con và người làm
  3. Chi tiêu về thuốc thang và những trường hợp khẩn cấp khác
  4. Chi tiêu về mục đích từ thiện
  5. Chi tiêu để thi hành các việc sau
  1. Ðối xử với thân quyến
  2. Ðối xử với khách
  3. Cúng dường để tưởng nhớ đến người đã khuất
  4. Dâng lễ vật cúng dường Chư Thiên
  5. Trả thuế và lệ phí nhà nước đúng kỳ hạn.
Ðức Phật tán dương cuộc sống đơn giản, cuộc sống đơn giản dẫn đến việc mở mang tâm trí con người. Một xã hội tiến bộ là do tâm của cá nhân phát triển. Quản trị một xã hội như vậy dễ dàng hơn, khi luật lệtrật tự được thiết lập tốt đẹp. Biết được như vậy, những nhà vua tại Sri Lanka quảng bá nhiều về nội dung của Kinh "Ariyavamsa". Trong kinh này, Ðức Phật thuyết giảng sự lợi ích cho các thầy tỳ-kheo, các thầy được khuyến khích mãn nguyện với:
  1. Y áo mà các thầy nhận được (dù thô hay mịn màng)
  2. Ðồ cúng dường (thực phẩm) các thầy nhận được (dù không ngon hay ngon)
  3. Nơi ở mà các thầy nhận được (dù đơn sơ hay sang trọng)
  4. Thiền (phát triển tâm)
Mãn ý với ba điều trên đây có thể làm giảm thiểu nền kinh tế khó khăn, và đồng thời in sâu vào tâm khảm những thói quengiá trị của một cuộc sống đơn giản. Do thiền tâm con người tự phát triển cả trí tuệ lẫn đạo đức, kết quả sẽ làm giảm bớt những rối loạn và bất ổn xã hội, những tư tưởng này phát sinh trước tiên trong tâm con người rồi trở thành hành động. Hòa bình và tiến bộ của một nước như vậy được bảo đảm.

Trong thế giới hiện đại mặc dù tiến bộ rất cao về khoa học và kỹ thuật, với sự mở mang nhanh chóng về kiến thức, nhưng phát hiện thấy những sự sa đọa dẫn giá trị con người đang diễn ra. Ngày nay, chính trị, kinh tế, và hệ thống giáo dục là những thứ quan trọng hơn trong việc nước. Trong lãnh vực này, điều đáng xét là những hệ thống chính trị, kinh tế, giáo dục phải được thay đổi để ưu tiên phải là việc phát triển giá trị con người.

Phật Giáo là cả hai con đường giải phónglối sống. Về lối sống Phật Giáo tác động qua lại với kinh tế, chính trị, tín ngưỡng xã hội và sự tu tập của người dân. Bây giờ là lúc đúng nhất để cho thế giới biết một trong những khía cạnh xã hội trong phạm vi cơ cấu Ðạo Ðức Phật Giáo và nguyên tắc căn bản của Phật Giáo. Sự tiến bộ của một nước tùy thuộc chủ yếu vào sự tiến bộ của từng cá nhân. Trên 2500 năm trước đây, Ðức Phật sinh ra trong một xã hội phức tạp rối rắm trong nhiều quan điểm về đời sốngtư tưởng. Nhờ Phật Giáo có thể gỡ được sự rối rắm này về quan niệmgiảm thiểu sự rối loạn. Ngày nay cũng vậy, trong cái xã hội hỗn loạn này, niềm tin tưởng chung là Phật Giáo có thể chiếu sáng đường đi tới xuyên qua cái tăm tối của sự hỗn loạn ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10191)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13587)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13733)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22204)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21862)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27374)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11733)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12326)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25246)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23272)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22766)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25694)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13988)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13432)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22469)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18471)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34505)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27375)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28420)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21369)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14891)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19200)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10617)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18572)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13180)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14024)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11791)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11632)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11340)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11889)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19943)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12394)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31964)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13436)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13329)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11893)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21863)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11093)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12899)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant