Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam giải thoát môn

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6991)
Tam giải thoát môn

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Tam giải thoát môn

Đây là một đề tài dành cho những người đang công phu thiền tập. Đó là ba cánh cửa giải thoát, từ chuyên môn nhà Phật gọi là “Tam giải thoát môn”, tức là ba phương pháp thiền quán đạt đến giải thoát của Phật giáo phát triển. Nếu so sánh với Tam Pháp Ấn của Phật giáo nguyên thủyVô Thường - Khổ - Vô ngã, hay trong luận tạngVô thường - Vô ngã - Niết bàn thì ba cánh cửa này có ý nghĩa rất sâu xa. Đây cũng là ba vấn đề hết sức quan trọng và lại rất trừu tượng, nên nếu công phu thiền quán của chúng ta còn kém cỏi, nói cách khác, nếu chúng ta còn nhiều phiền não khổ đau quá, chúng ta sẽ khó lòng nắm bắt được.

 Tam giải thoát môn gồm: Không môn, Vô tướng môn, Vô tác môn.

 1. Không môn

Đó là thấy tất cả các pháp đều không thực thể. Vì sao trong nhà Phật, cái gì cũng cho là không hết? Tất cả kinh điển Đại thừa trong đó có 600 quyển Bát Nhã, cho đến những bộ luận tiểu thừađại thừa cũng nhầm làm sáng tỏ lý không. Nhưng tại sao không nói mà lại nói không? Trong cuộc đời chúng ta thấy khổ vì bất cứ cái gì chúng ta cũng cho là thật. Vì cho là thật nên chúng ta muốn nắm bắt, và ý niệm muốn nắm bắt đó, nếu thỏa mãn thì thêm tham, mà không thỏa mãn thì lại sân. Như vậy, từ chỗ chấp có các pháp (Si), mà chúng ta hoặc tham hoặc sân. Từ chỗ chấp cóchúng ta thêm đau khổ, từ chỗ chấp có mà phải đi vào các cõi để thọ sanh. Thọ sanh trong mấy mươi năm, tuy chỉ một kiếp phù sinhcon người vẫn cảm nhận nhiều sự khổ hơn vui.

Giờ đây, nói đến không là để chúng ta không chấp. Ví dụ như, nếu chúng ta thấy thân không thật, mà phải thấy một cách thâm nhập, một cách sâu sắc, thì khi người khác chửi ta, ta không thấy giận, khi người khác khen ta, ta cũng không tự đắc tự hào. Vì vậy, người có thâm nhập được lý không, thì đối với tất cả mọi cảnh ngộ, họ đều giữ tâm như đất. Từ đó suy ra cái đạo lực, cái định lực của mỗi người. Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, chúng ta nên tự nghiệm, trong suốt ngày qua chúng ta đã làm được gì, chúng ta đã tự tại khi tiếp duyên xúc cảnh được bao nhiêu phần. Điều này cần đến sức nội quán của chúng ta, nghĩa là tự kiểm nghiệm lại mình. Nhiều khi chúng ta nói vượt quá chỗ chúng ta làm được, điều này khiến ta không được an ổn chút nào hết.

Ở đây, cũng cần chú ý một điều: Khi chúng ta nhìn đóa hoa trước mặt và cho nó là không, vì nó được hợp thành bởi nhiều cánh hoa, nếu chúng ta tách ra từng cánh thì cuối cùng sẽ không còn đóa hoa nữa. Như vậy, đóa hoa không có thực thể, cái ý niệm về đoá hoa chỉ là con đẻ của ý thức, đoá hoa chỉ có trên giả danh giả tướng vì là do duyên hợp. Cái không vì thế có nghĩa là không có thực thể, chứ không phải phủ nhận sự hiện hữu của đoá hoa. Mặt khác, khi thiền quán, chúng ta từng bước quán chiếu thấy các pháp đều không, là do chúng ta chia chẻ từng chi tiết của sự vật mà nhận ra tính duyên hợp giả có của chúng, chia chẻ mới thấy các pháp là không, thì lúc đó đã có ý thức xen vào. Đó chỉ là cái thấy của “Tích không quán” chứ chưa thấy được “Đương thể tức không”. Khi nhìn đóa hoa thấy ngay là không, không cần quán mới thấy, đó là mức độ không chúng ta cần nói ở đây. Cho nên, không môn là cái thấy của trực giác chứ không phải của suy luận. Khi mà cái thấy còn là suy luận, nghĩa là còn có tâm năng quán trên cảnh sở quán thì cái thấy vẫn còn là phiến diện. Đóa hoa tự nó không nói lên điều gì, nhưng nếu chúng ta thấy hoa xấu hay hoa đẹp, thực hay giả, đó là do ý thức của chúng ta áp đặt lên nó. Thật sự, hoa khi chưa nở đã là không, đang nở cũng là không, mà lúc tàn rụng cũng là không. Cả ba giai đoạn: đã, đang và sẽ đều là không. Không này không phải là đối với , nghĩa là không thuộc nhị biên phân biệt, mà ngay nơi các pháp vốn là không. Đây là hành vi của Bát Nhã, cái thấy của trí tuệ chứ không phải cái thấy của suy luận, của ý thức. Ví dụ: Khi suy luận, ta phân biệt người thân kẻ sơ, nhưng khi phăng đến tận cùng, cái gọi là thân sơ ấy chẳng qua là sự chấp ngã: Người có ơn nghĩa với ta gọi là thân, kẻ không dính dáng về tình cảm gọi là sơ. Hành vi ngã chấp này, rốt cuộc là do chấp có.

Lúc thiền tập chúng ta có thể nhận biết rằng, khi buông bỏ hết vọng tưởng, tâm hoàn toàn lặng lẽ, với tâm lặng lẽ đó mà vẫn biết, vẫn thấy tất cả các pháp một cách tự nhiên. Đó là cái thấy không qua niệm khởi, cái thấy của Bát Nhã, đó là không. Nếu chúng ta chưa biết thiền định là gì, tâm sẽ suy nghĩ lung tung, không tự chủ được từng niệm, nên thấy cái gì cũng bằng niệm hết. Nếu cố gắng gán ghép, tưởng tượng ra một cái “không” ở nơi cái “hoa”, đây là một điều hết sức sai lầm. Nếu có ý niệm “không” trong cái “hoa” thì ở đây sẽ có hai cái: Cái khôngcái hoa. Cũng như khi nghe giảng về Phật tánh, chúng ta lại tưởng tượng có Phật tánh trong thân năm uẩn. Những trò chơi phân ranh ấy của ý thức, làm chúng ta không hiểu được lẽ thực của tất cả các pháp.

câu chuyện “Vua Sở mất gươm”: Một hôm vua đi săn, đánh rơi mất gươm báu. Khi về triều vua mới phát hiện là mất gươm quý, Vua bèn ra lệnh cho quần thần đi tìm. Sau đó mới hay có một người nước Sở đã nhặt được gươm. Vua bèn phán rằng: “Thôi đừng truy cứu nữa, bởi vì vua nước Sở mất gươm, người nước Sở được gươm”. Khi việc này lan truyền trong nhân gian, các môn đệ của Đức Khổng Tử hỏi Ngài : “Nếu ở địa vị Ngài, Ngài sẽ xử sự ra sao?”, Đức Khổng Tử trả lời : “Khổng Khâu sẽ bảo là, người mất gươm, người được gươm”. Chúng ta ngẫm xem tầm nhìn của các Ngài như thế nào? Đối với vua Sở, tuy mất gươm nhưng người được gươm là người cùng nước Sở, nên Vua không truy cứu. Như vậy cái ngã của vua đã chan hòa khắp cả mọi người trong nước mình, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nước Sở thôi. Còn Đức Khổng Tử, tầm nhìn của Ngài xa hơn, thoáng hơn, nên cái thấy của Ngài bao trùm tất cả loài người.

Đối với những vị đã nhận được lý không, sẽ thấy mọi pháp đều bình đẳng, tầm nhìn của các vị sẽ trùm khắp pháp giới. Khi nhìn sự hiện hữu của bất cứ pháp nào bằng trực giác bát nhã, thấy toàn bộkhông, thì cái thấy đó đã thuộc về pháp giới rồi. Tâm tính lúc đó là Pháp giới tính, cho nên cái thấy này càng siêu việt hơn. Đó là lý do các vị Bồ tát khi thâm nhập được cái thấy này, đã lăn xả vào các cõi để độ sanh. Các Ngài có đời sống khác hơn người thường, sống bằng thần lực, bởi vì khi thấy được cái không, lập tức có sự bình an nội tâm do cái thấy không phân ranh, không chấp thủ, không đảo điên, không vọng tưởng. Còn chúng ta tu mà không thấy, nên càng tu lại càng tham sân nhiều. Đó là vì chúng ta lấy cái ngã mà tu, chưa thấy đường đi đã vội cất bước, nên phiền não cứ còn hoài.

Một điểm cần lưu ý, chúng ta đừng bao giờ nghĩ cái không ở đây là cái không đoạn diệt. Đức Phật không cố tình cho chúng ta thấy cuộc đời này là không. Không phải khi đã ngộ đạo, các Ngài không còn thấy cái gì trước mắt, nhưng vì có mà diễn tả không đến, nên gọi là Diệu Hữu; vì không mà không phải là không ngơ, nên gọi là Chơn Không. Sắc mà thấy đúng mức thì không phải là cái sắc trên giả danh, giả tướng, mà là chơn sắc, diệu sắc. Đây là cái thấy rất tự tại, cái thấy không lệ thuộc nhị biên, cái thấy bằng trực giác mà đôi lúc chúng ta có thể kiểm nghiệm được khi tâm hoàn toàn an định, lặng lẽ.

2. Vô tướng môn

Đây là cánh cửa giải thoát thứ hai. Vô tướng là gì? - Khi chúng ta nhìn đóa hoa, biết nó là duyên hợp hư giả, do nhiều yếu tố không phải nó hợp lại mà thành. Hoa không có tự thể riêng biệt, không có tướng nhất định, không có tính đồng nhất, nên nó vô tướng.

Tất cả các pháp cũng như thế, hoàn toàn lệ thuộc vào các duyên, không có tướng mạo nhất định. Ví dụ: nước chứa ở trong ly được gọi là ly nước, chứa ở trong chén thì gọi là chén nước. Hình tướng của ly nước khác hình tướng của chén nước, nhưng bản chất của nước là một. Như vậy, đồng là nước nhưng tuỳ duyên mà có hình tướng khác nhau. Nước không có tướng nhất định nên gọi là vô tướng. Ai thấy được cái vô tướng này, người đó sẽ nhận được sự uyển chuyển sinh động trong từng giây phút của cuộc sống. “Chư pháp tùng bất lai, thường tự tịch diệt tướng”, nhưng “Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng oanh đề liễu thượng”. Tuy tướng là tịch diệt, nhưng tuỳ duyên mà có hoa nở và chim hót trên cành. Chim hót vẫn ở trong chỗ tịch lặng, hoa nở cũng ở trong chỗ tịch lặng. Vì vậy, khi thấy hoa đào nở, Thiền sư Linh Vân liền tức khắc nhận ra cái vô tướng đó. Thấy được như thế là trở về với Phật tánh của chính mình. Và lúc ấy sẽ có một sự uyển chuyển sinh động trong cuộc sống. Các vị Bồ tát lập phương tiện giáo hoá chúng sanh cũng nhờ cái thấy uyển chuyển sinh động này. Còn người nào có cái thấy giáo điều, cứng nhắc, khô chết, thì rõ ràng người ấy nhốt chân lý vào trong một khuôn khổ cố định. Thực ra, chân lý làm gì có khuôn khổ. Nếu chân lý có khuôn khổ, thì Bồ tát Quán Thế Âm đã không thị hiện rất nhiều thân tướng để tuỳ duyên hoá độ chúng sanh.

Chúng ta đã biết, Đạo Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nếu ai bảo rằng pháp tu của mình là đệ nhất, thì người ấy chưa hiểu gì về phật pháp. Trong phật pháp, khi còn ở cửa ngõ phương tiện thì còn có sai khác, nhưng đến cứu cánh thì tất cả chỉ là một. Đức Phật đã từng nói: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị mặn, trong giáo pháp của Như Lai cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Người có trí không bao giờ cố chấp, đem một khuôn khổ áp đặt mọi người phải theo mình. Chính vì không cố chấp, không hành xử một chiều nên đối với họ thuận cảnh hay nghịch cảnh đều là thắng duyên. Đối với người chưa biết tu, thuận cảnh làm cho họ đam mê, nghịch cảnh làm cho họ sân hận, nên cả hai đều là chướng ngại. Còn đối với người biết tu, thuận hay nghịch đều tốt, cho nên đối với Đức Thế Tôn, chính Đề Bà Đạt Đathiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài. Ngài đã đối xử với Đề Bà Đạt Đa cũng như Ngài A Nanthị giả, hoàn toàn bình đẳng, không hơn không kém.

Từ cái thấy vô tướng này, chúng ta soi rọi được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Vô tướng ở đây không có nghĩa là không có tướng, mà là nơi tướng lìa tướng. Đối với các pháp, không thực sự có hiện hữu, mà chỉ là hiện hữu một cách giả tạm. Thấy một cách thấu suốt như vậy chúng ta sẽ được bình an. Cái gọi là chết chỉ là ảo tưởng do ý thức bày đặt ra, chứ không có cái chết thật. Một đợt sóng trồi lên mặt đại dương ta cho đó là sống, khi nó chìm xuống thì cho là chết, thật ra đợt sóng ấy chưa từng sống mà cũng chưa từng chết, nếu sóng nhận ra nó chính là nước. Đợt sóng năm uẩn trên biển chơn như này cũng vậy, nếu thấy được cái vô tướng của thân, ta sẽ thấy cái sống hay cái chết cũng chỉ đều trên giả danh giả tướng.

Tóm lại, một pháp không có tự thể riêng biệt, không thể đứng riêng biệt mà tồn tại nên nó là không. Vì không nên nó vô tướng.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”([i]). Khi ta thấy được sự thay hình đổi dạng liên tục, trong từng sát na nơi các pháp, ta mới thấy được chỗ phi tướng. Các pháp này là do duyên hợp giả có nên phi, các pháp chẳng phải thật là nó nên phi. Chúng ta đừng nghĩ rằng Như Lai là ông Phật xi măng ngồi trên bệ. Cố nhiên, chúng ta phải quý kính Ngài, xem Ngài như đang hiện tiền trước mặt để ta đảnh lễ, để tu theo Ngài. Nhưng nếu có một ai trong chúng ta nghĩ Như Lai với một ý nghĩ không thận trọng như vậy là lầm. Khi ta nhìn đoá hoa, cái thấy đã đến tác động trên hoa, đó là LAI; nhưng thấy mà không sanh tâm phân biệt đẹp xấu, ưa ghét thì đó là NHƯ. Nghe tiếng chim hót, cái nghe tác động đến tiếng chim nên LAI, nhưng không sanh tâm phân biệt nên NHƯ. Các căn tiếp xúc với các trần khác cũng vậy. Do đó, LAI là dụng của NHƯ, NHƯ là thể của LAI. Chúng ta từ NHƯ mà đến (Lai), nhưng quên NHƯ, nên cứ mãi lăn lộn, tạo nghiệp mãi trong ba cõi sáu đường, còn Đức Thế Tôn đã triệt chứng chỗ này nên gọi Ngài là NHƯ LAI.

 

3. Vô tác môn.

Khi hiểu sâu xa về Không, về Vô tướng, chúng ta sẽ càng dễ hiểu về Vô tác. Vô tác môn là cửa không tạo tác. Nếu thấy bằng tâm Vô tác, liền tức khắc được giải thoát. Đây là cửa giải thoát thứ ba.

Vô tác còn gọi là Vô nguyện, nghĩa là không mong cầu, không ham muốn. Tâm hoàn toàn vắng lặng đối với cuộc đời này, tuỳ duyên mà sống, tuỳ duyênthọ dụng. Không chấp thiện ác, đúng sai, không chấp nhị biên phân biệt. Sống nhưng không có thức khởi trong đó, nên tuy thấy biết rõ các pháp mà không tạo tác thêm nghiệp gì nữa. Như vậy, Vô tác là do thấy các pháp là Không, là Vô tướng nên tâm không dính mắc, không tạo tác, dù cũng làm tất cả mọi việc. Các vị A la hán, Bồ tát cũng làm lợi ích cho chúng sanh, cũng hoạt động sinh hoạt như chúng sanh, nhưng không tạo nghiệp, vì tâm các Ngài là Vô tác. Đã không tạo nghiệp thì không có kiết sử, mà không có kiết sử thì lấy gì dẫn mình đi luân hồi? Bị dẫn đi luân hồi là khi còn kiết sử, còn nghiệp. Nếu nghiệp thiện thì sanh nơi cõi lành, nghiệp ác phải đọa ba đường khổ là địa ngục-ngạ quỷ-súc sanh. Ở đây không vướng các nghiệp dù thiện hay ác, nên giải thoát khỏi sinh tử luân hồi

Một khía cạnh khác của Vô tác đối với trường hợp của các vị Bồ tát. Các Ngài không tác nghiệp nên không còn động cơ tái sanhkiếp sau. Nhưng vì bản nguyện độ sanh, nên các Ngài tùy theo nguyện lực của mình, thị hiện nơi các cõi để tuỳ duyên hoá độ.

Khi tu nghĩa là phải tập. Khi có cảnh thuận hay nghịch đến với ta, ta phải để tâm xem thử động tĩnh thế nào. Đó là quán tâm như tâm, các vận hành của tâm ta phải thấy rõ và làm chủ nó. Ta phải thấy một cách quán triệttoàn bộ những vọng niệm chỉ là những đợt sóng trên mặt biển tâm, cũng như sóng trên mặt đại dương, không cần diệt vọng mà chỉ cần liễu vọng, vì có tâm diệt vọng cũng như muốn lấy nước để trừ sóng, đó là cái thấy của Nhị thừa chứ không phải của Phật, Bồ tát.

Một vấn đề khác nữa, khi tâm đã Vô tác thì không còn động cơ tái sinh. Mà khi không còn động cơ tái sinh thì không còn đặt một đối tượng sở chứng sở đắc nào. Các pháp hữu vi đã là Không, là Vô tướng, thì cái gọi Niết bàn cũng không có tướng mạo. Niết bàn không phải là một cảnh giới để mình bơi lội trong đó. Nói theo nghĩa thông thường, khi ta cầm một vật gì thì vật ấy không phải là ta. Tương tự như vậy, nếu ta chứng được cảnh Niết bàn, thì Niết bàn ấy đã ở ngoài ta rồi. Niết bàn ở đây không phải là cái bị biết, mà là viên dung cả cái hay biết và cái bị biết, không phân ranh được. Khi ta thấy đoá hoa là đã biết mắt ta sáng, không còn tìm con mắt của ta nữa. Khi ta biết những đợt sóng đều là nước, thì thân năm uẩn này đã là Niết bàn, không cần tìm Niết bàn ở đâu nữa. Đó là tinh thần Vô tác.

Chúng ta đã từng nghe bài kệ của Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn trình cho Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch:

“Khứ niên bần vị thị bần,

Kim niên bần thỉ thị bần.

Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa,

Kim niên bần chùy dã vô”([ii]).

Đây là một thông điệp về sự nghèo. Cái nghèo của Ngài Hương Nghiêm chỉ có ở các vị A la hán trở lên, các vị đã đạt đến Vô sanh, tức là Vô tác.

Cái nghèo ở đây ám chỉ điều gì? Thế nào là dùi? Thế nào là đất? - Đất là chỉ cho sáu trần cảnh bên ngoài. Dùi tượng trưng cho cái tâm phân biệt hay biết. Năm xưa tuy nghèo, nhưng đối duyên xúc cảnh vẫn còn phân tâm trên cảnh, nên còn có đất cắm dùi. Năm nay, tâm năng biết đã biến thành trực giác, khi thấy cảnh không còn gá trên cảnh để sanh tâm, nên nghèo không còn đất cắm dùi. Nói cách khác, năm xưa thấy cảnh vẫn còn có tâm sở hữu, chấp trước, còn dính mắc, dù là dính mắc với cái thiện hay với trình độ tri thức của mình về phật pháp, nên dù nghèo nhưng vẫn chưa thật nghèo. Năm nay nghèo mới thật nghèo, nghĩa là Vô tác, làm tất cả mà không kể công, làm mà không có cái ngã xen vào. Đây là việc làm của các vị Bồ tát, là hành động không công đức, tức đạo đức vô hành. Bồ tát luôn luôn làm mọi việc vì người, luôn quên mình vì lợi ích của người khác. Mà trong khi quên mình để phục vụ, thì lúc đó các Ngài đã sống viên mãn với cái thật. Còn chúng ta thì thường chỉ có ý thức về mình, ít nghĩ đến người khác, nên chúng ta là những con người đau khổ. Cho nên, người nào tập quên mình bao nhiêu thì người đó sẽ có sự bù đắp vô tận vô biên. Cũng vì thế, tu không phải là sự mất mát như nhiều người lầm tưởng, bởi vì khi buông tất cả, ta sẽ được tất cả.

Tóm lại, Không-Vô tướng-Vô tác là ba cửa giải thoát, nhưng không nhất thiết phải đi cả ba cửa, chúng ta chỉ chọn một cửa thích hợp cũng vào được trong nhà. Thật ra, đây là ba khía cạnh của một vấn đề, nên nếu thâm nhập được một cửa, thì có thể thâm nhập luôn hai cửa kia.



[i] “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, liền thấy được Như Lai”

[ii] Tạm dịch: “Năm xưa nghèo chưa thật nghèo / Năm nay nghèo mới thật nghèo / Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi / Năm nay nghèo cả cái dùi cũng không”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14283)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14550)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11834)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14339)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13252)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14612)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12627)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25180)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27831)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26312)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17193)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16514)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15888)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22090)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17112)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24854)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21922)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19050)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16150)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21690)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16757)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14643)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16675)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25006)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18760)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21187)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14756)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14361)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16596)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 17994)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12891)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14927)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12685)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13874)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14589)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27961)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27134)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14323)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20911)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14657)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24146)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28621)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14721)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13271)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16419)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27188)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 11989)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16048)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21424)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12357)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant