Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam giải thoát môn

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7005)
Tam giải thoát môn

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Tam giải thoát môn

Đây là một đề tài dành cho những người đang công phu thiền tập. Đó là ba cánh cửa giải thoát, từ chuyên môn nhà Phật gọi là “Tam giải thoát môn”, tức là ba phương pháp thiền quán đạt đến giải thoát của Phật giáo phát triển. Nếu so sánh với Tam Pháp Ấn của Phật giáo nguyên thủyVô Thường - Khổ - Vô ngã, hay trong luận tạngVô thường - Vô ngã - Niết bàn thì ba cánh cửa này có ý nghĩa rất sâu xa. Đây cũng là ba vấn đề hết sức quan trọng và lại rất trừu tượng, nên nếu công phu thiền quán của chúng ta còn kém cỏi, nói cách khác, nếu chúng ta còn nhiều phiền não khổ đau quá, chúng ta sẽ khó lòng nắm bắt được.

 Tam giải thoát môn gồm: Không môn, Vô tướng môn, Vô tác môn.

 1. Không môn

Đó là thấy tất cả các pháp đều không thực thể. Vì sao trong nhà Phật, cái gì cũng cho là không hết? Tất cả kinh điển Đại thừa trong đó có 600 quyển Bát Nhã, cho đến những bộ luận tiểu thừađại thừa cũng nhầm làm sáng tỏ lý không. Nhưng tại sao không nói mà lại nói không? Trong cuộc đời chúng ta thấy khổ vì bất cứ cái gì chúng ta cũng cho là thật. Vì cho là thật nên chúng ta muốn nắm bắt, và ý niệm muốn nắm bắt đó, nếu thỏa mãn thì thêm tham, mà không thỏa mãn thì lại sân. Như vậy, từ chỗ chấp có các pháp (Si), mà chúng ta hoặc tham hoặc sân. Từ chỗ chấp cóchúng ta thêm đau khổ, từ chỗ chấp có mà phải đi vào các cõi để thọ sanh. Thọ sanh trong mấy mươi năm, tuy chỉ một kiếp phù sinhcon người vẫn cảm nhận nhiều sự khổ hơn vui.

Giờ đây, nói đến không là để chúng ta không chấp. Ví dụ như, nếu chúng ta thấy thân không thật, mà phải thấy một cách thâm nhập, một cách sâu sắc, thì khi người khác chửi ta, ta không thấy giận, khi người khác khen ta, ta cũng không tự đắc tự hào. Vì vậy, người có thâm nhập được lý không, thì đối với tất cả mọi cảnh ngộ, họ đều giữ tâm như đất. Từ đó suy ra cái đạo lực, cái định lực của mỗi người. Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, chúng ta nên tự nghiệm, trong suốt ngày qua chúng ta đã làm được gì, chúng ta đã tự tại khi tiếp duyên xúc cảnh được bao nhiêu phần. Điều này cần đến sức nội quán của chúng ta, nghĩa là tự kiểm nghiệm lại mình. Nhiều khi chúng ta nói vượt quá chỗ chúng ta làm được, điều này khiến ta không được an ổn chút nào hết.

Ở đây, cũng cần chú ý một điều: Khi chúng ta nhìn đóa hoa trước mặt và cho nó là không, vì nó được hợp thành bởi nhiều cánh hoa, nếu chúng ta tách ra từng cánh thì cuối cùng sẽ không còn đóa hoa nữa. Như vậy, đóa hoa không có thực thể, cái ý niệm về đoá hoa chỉ là con đẻ của ý thức, đoá hoa chỉ có trên giả danh giả tướng vì là do duyên hợp. Cái không vì thế có nghĩa là không có thực thể, chứ không phải phủ nhận sự hiện hữu của đoá hoa. Mặt khác, khi thiền quán, chúng ta từng bước quán chiếu thấy các pháp đều không, là do chúng ta chia chẻ từng chi tiết của sự vật mà nhận ra tính duyên hợp giả có của chúng, chia chẻ mới thấy các pháp là không, thì lúc đó đã có ý thức xen vào. Đó chỉ là cái thấy của “Tích không quán” chứ chưa thấy được “Đương thể tức không”. Khi nhìn đóa hoa thấy ngay là không, không cần quán mới thấy, đó là mức độ không chúng ta cần nói ở đây. Cho nên, không môn là cái thấy của trực giác chứ không phải của suy luận. Khi mà cái thấy còn là suy luận, nghĩa là còn có tâm năng quán trên cảnh sở quán thì cái thấy vẫn còn là phiến diện. Đóa hoa tự nó không nói lên điều gì, nhưng nếu chúng ta thấy hoa xấu hay hoa đẹp, thực hay giả, đó là do ý thức của chúng ta áp đặt lên nó. Thật sự, hoa khi chưa nở đã là không, đang nở cũng là không, mà lúc tàn rụng cũng là không. Cả ba giai đoạn: đã, đang và sẽ đều là không. Không này không phải là đối với , nghĩa là không thuộc nhị biên phân biệt, mà ngay nơi các pháp vốn là không. Đây là hành vi của Bát Nhã, cái thấy của trí tuệ chứ không phải cái thấy của suy luận, của ý thức. Ví dụ: Khi suy luận, ta phân biệt người thân kẻ sơ, nhưng khi phăng đến tận cùng, cái gọi là thân sơ ấy chẳng qua là sự chấp ngã: Người có ơn nghĩa với ta gọi là thân, kẻ không dính dáng về tình cảm gọi là sơ. Hành vi ngã chấp này, rốt cuộc là do chấp có.

Lúc thiền tập chúng ta có thể nhận biết rằng, khi buông bỏ hết vọng tưởng, tâm hoàn toàn lặng lẽ, với tâm lặng lẽ đó mà vẫn biết, vẫn thấy tất cả các pháp một cách tự nhiên. Đó là cái thấy không qua niệm khởi, cái thấy của Bát Nhã, đó là không. Nếu chúng ta chưa biết thiền định là gì, tâm sẽ suy nghĩ lung tung, không tự chủ được từng niệm, nên thấy cái gì cũng bằng niệm hết. Nếu cố gắng gán ghép, tưởng tượng ra một cái “không” ở nơi cái “hoa”, đây là một điều hết sức sai lầm. Nếu có ý niệm “không” trong cái “hoa” thì ở đây sẽ có hai cái: Cái khôngcái hoa. Cũng như khi nghe giảng về Phật tánh, chúng ta lại tưởng tượng có Phật tánh trong thân năm uẩn. Những trò chơi phân ranh ấy của ý thức, làm chúng ta không hiểu được lẽ thực của tất cả các pháp.

câu chuyện “Vua Sở mất gươm”: Một hôm vua đi săn, đánh rơi mất gươm báu. Khi về triều vua mới phát hiện là mất gươm quý, Vua bèn ra lệnh cho quần thần đi tìm. Sau đó mới hay có một người nước Sở đã nhặt được gươm. Vua bèn phán rằng: “Thôi đừng truy cứu nữa, bởi vì vua nước Sở mất gươm, người nước Sở được gươm”. Khi việc này lan truyền trong nhân gian, các môn đệ của Đức Khổng Tử hỏi Ngài : “Nếu ở địa vị Ngài, Ngài sẽ xử sự ra sao?”, Đức Khổng Tử trả lời : “Khổng Khâu sẽ bảo là, người mất gươm, người được gươm”. Chúng ta ngẫm xem tầm nhìn của các Ngài như thế nào? Đối với vua Sở, tuy mất gươm nhưng người được gươm là người cùng nước Sở, nên Vua không truy cứu. Như vậy cái ngã của vua đã chan hòa khắp cả mọi người trong nước mình, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nước Sở thôi. Còn Đức Khổng Tử, tầm nhìn của Ngài xa hơn, thoáng hơn, nên cái thấy của Ngài bao trùm tất cả loài người.

Đối với những vị đã nhận được lý không, sẽ thấy mọi pháp đều bình đẳng, tầm nhìn của các vị sẽ trùm khắp pháp giới. Khi nhìn sự hiện hữu của bất cứ pháp nào bằng trực giác bát nhã, thấy toàn bộkhông, thì cái thấy đó đã thuộc về pháp giới rồi. Tâm tính lúc đó là Pháp giới tính, cho nên cái thấy này càng siêu việt hơn. Đó là lý do các vị Bồ tát khi thâm nhập được cái thấy này, đã lăn xả vào các cõi để độ sanh. Các Ngài có đời sống khác hơn người thường, sống bằng thần lực, bởi vì khi thấy được cái không, lập tức có sự bình an nội tâm do cái thấy không phân ranh, không chấp thủ, không đảo điên, không vọng tưởng. Còn chúng ta tu mà không thấy, nên càng tu lại càng tham sân nhiều. Đó là vì chúng ta lấy cái ngã mà tu, chưa thấy đường đi đã vội cất bước, nên phiền não cứ còn hoài.

Một điểm cần lưu ý, chúng ta đừng bao giờ nghĩ cái không ở đây là cái không đoạn diệt. Đức Phật không cố tình cho chúng ta thấy cuộc đời này là không. Không phải khi đã ngộ đạo, các Ngài không còn thấy cái gì trước mắt, nhưng vì có mà diễn tả không đến, nên gọi là Diệu Hữu; vì không mà không phải là không ngơ, nên gọi là Chơn Không. Sắc mà thấy đúng mức thì không phải là cái sắc trên giả danh, giả tướng, mà là chơn sắc, diệu sắc. Đây là cái thấy rất tự tại, cái thấy không lệ thuộc nhị biên, cái thấy bằng trực giác mà đôi lúc chúng ta có thể kiểm nghiệm được khi tâm hoàn toàn an định, lặng lẽ.

2. Vô tướng môn

Đây là cánh cửa giải thoát thứ hai. Vô tướng là gì? - Khi chúng ta nhìn đóa hoa, biết nó là duyên hợp hư giả, do nhiều yếu tố không phải nó hợp lại mà thành. Hoa không có tự thể riêng biệt, không có tướng nhất định, không có tính đồng nhất, nên nó vô tướng.

Tất cả các pháp cũng như thế, hoàn toàn lệ thuộc vào các duyên, không có tướng mạo nhất định. Ví dụ: nước chứa ở trong ly được gọi là ly nước, chứa ở trong chén thì gọi là chén nước. Hình tướng của ly nước khác hình tướng của chén nước, nhưng bản chất của nước là một. Như vậy, đồng là nước nhưng tuỳ duyên mà có hình tướng khác nhau. Nước không có tướng nhất định nên gọi là vô tướng. Ai thấy được cái vô tướng này, người đó sẽ nhận được sự uyển chuyển sinh động trong từng giây phút của cuộc sống. “Chư pháp tùng bất lai, thường tự tịch diệt tướng”, nhưng “Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng oanh đề liễu thượng”. Tuy tướng là tịch diệt, nhưng tuỳ duyên mà có hoa nở và chim hót trên cành. Chim hót vẫn ở trong chỗ tịch lặng, hoa nở cũng ở trong chỗ tịch lặng. Vì vậy, khi thấy hoa đào nở, Thiền sư Linh Vân liền tức khắc nhận ra cái vô tướng đó. Thấy được như thế là trở về với Phật tánh của chính mình. Và lúc ấy sẽ có một sự uyển chuyển sinh động trong cuộc sống. Các vị Bồ tát lập phương tiện giáo hoá chúng sanh cũng nhờ cái thấy uyển chuyển sinh động này. Còn người nào có cái thấy giáo điều, cứng nhắc, khô chết, thì rõ ràng người ấy nhốt chân lý vào trong một khuôn khổ cố định. Thực ra, chân lý làm gì có khuôn khổ. Nếu chân lý có khuôn khổ, thì Bồ tát Quán Thế Âm đã không thị hiện rất nhiều thân tướng để tuỳ duyên hoá độ chúng sanh.

Chúng ta đã biết, Đạo Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nếu ai bảo rằng pháp tu của mình là đệ nhất, thì người ấy chưa hiểu gì về phật pháp. Trong phật pháp, khi còn ở cửa ngõ phương tiện thì còn có sai khác, nhưng đến cứu cánh thì tất cả chỉ là một. Đức Phật đã từng nói: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị mặn, trong giáo pháp của Như Lai cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Người có trí không bao giờ cố chấp, đem một khuôn khổ áp đặt mọi người phải theo mình. Chính vì không cố chấp, không hành xử một chiều nên đối với họ thuận cảnh hay nghịch cảnh đều là thắng duyên. Đối với người chưa biết tu, thuận cảnh làm cho họ đam mê, nghịch cảnh làm cho họ sân hận, nên cả hai đều là chướng ngại. Còn đối với người biết tu, thuận hay nghịch đều tốt, cho nên đối với Đức Thế Tôn, chính Đề Bà Đạt Đathiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài. Ngài đã đối xử với Đề Bà Đạt Đa cũng như Ngài A Nanthị giả, hoàn toàn bình đẳng, không hơn không kém.

Từ cái thấy vô tướng này, chúng ta soi rọi được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Vô tướng ở đây không có nghĩa là không có tướng, mà là nơi tướng lìa tướng. Đối với các pháp, không thực sự có hiện hữu, mà chỉ là hiện hữu một cách giả tạm. Thấy một cách thấu suốt như vậy chúng ta sẽ được bình an. Cái gọi là chết chỉ là ảo tưởng do ý thức bày đặt ra, chứ không có cái chết thật. Một đợt sóng trồi lên mặt đại dương ta cho đó là sống, khi nó chìm xuống thì cho là chết, thật ra đợt sóng ấy chưa từng sống mà cũng chưa từng chết, nếu sóng nhận ra nó chính là nước. Đợt sóng năm uẩn trên biển chơn như này cũng vậy, nếu thấy được cái vô tướng của thân, ta sẽ thấy cái sống hay cái chết cũng chỉ đều trên giả danh giả tướng.

Tóm lại, một pháp không có tự thể riêng biệt, không thể đứng riêng biệt mà tồn tại nên nó là không. Vì không nên nó vô tướng.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”([i]). Khi ta thấy được sự thay hình đổi dạng liên tục, trong từng sát na nơi các pháp, ta mới thấy được chỗ phi tướng. Các pháp này là do duyên hợp giả có nên phi, các pháp chẳng phải thật là nó nên phi. Chúng ta đừng nghĩ rằng Như Lai là ông Phật xi măng ngồi trên bệ. Cố nhiên, chúng ta phải quý kính Ngài, xem Ngài như đang hiện tiền trước mặt để ta đảnh lễ, để tu theo Ngài. Nhưng nếu có một ai trong chúng ta nghĩ Như Lai với một ý nghĩ không thận trọng như vậy là lầm. Khi ta nhìn đoá hoa, cái thấy đã đến tác động trên hoa, đó là LAI; nhưng thấy mà không sanh tâm phân biệt đẹp xấu, ưa ghét thì đó là NHƯ. Nghe tiếng chim hót, cái nghe tác động đến tiếng chim nên LAI, nhưng không sanh tâm phân biệt nên NHƯ. Các căn tiếp xúc với các trần khác cũng vậy. Do đó, LAI là dụng của NHƯ, NHƯ là thể của LAI. Chúng ta từ NHƯ mà đến (Lai), nhưng quên NHƯ, nên cứ mãi lăn lộn, tạo nghiệp mãi trong ba cõi sáu đường, còn Đức Thế Tôn đã triệt chứng chỗ này nên gọi Ngài là NHƯ LAI.

 

3. Vô tác môn.

Khi hiểu sâu xa về Không, về Vô tướng, chúng ta sẽ càng dễ hiểu về Vô tác. Vô tác môn là cửa không tạo tác. Nếu thấy bằng tâm Vô tác, liền tức khắc được giải thoát. Đây là cửa giải thoát thứ ba.

Vô tác còn gọi là Vô nguyện, nghĩa là không mong cầu, không ham muốn. Tâm hoàn toàn vắng lặng đối với cuộc đời này, tuỳ duyên mà sống, tuỳ duyênthọ dụng. Không chấp thiện ác, đúng sai, không chấp nhị biên phân biệt. Sống nhưng không có thức khởi trong đó, nên tuy thấy biết rõ các pháp mà không tạo tác thêm nghiệp gì nữa. Như vậy, Vô tác là do thấy các pháp là Không, là Vô tướng nên tâm không dính mắc, không tạo tác, dù cũng làm tất cả mọi việc. Các vị A la hán, Bồ tát cũng làm lợi ích cho chúng sanh, cũng hoạt động sinh hoạt như chúng sanh, nhưng không tạo nghiệp, vì tâm các Ngài là Vô tác. Đã không tạo nghiệp thì không có kiết sử, mà không có kiết sử thì lấy gì dẫn mình đi luân hồi? Bị dẫn đi luân hồi là khi còn kiết sử, còn nghiệp. Nếu nghiệp thiện thì sanh nơi cõi lành, nghiệp ác phải đọa ba đường khổ là địa ngục-ngạ quỷ-súc sanh. Ở đây không vướng các nghiệp dù thiện hay ác, nên giải thoát khỏi sinh tử luân hồi

Một khía cạnh khác của Vô tác đối với trường hợp của các vị Bồ tát. Các Ngài không tác nghiệp nên không còn động cơ tái sanhkiếp sau. Nhưng vì bản nguyện độ sanh, nên các Ngài tùy theo nguyện lực của mình, thị hiện nơi các cõi để tuỳ duyên hoá độ.

Khi tu nghĩa là phải tập. Khi có cảnh thuận hay nghịch đến với ta, ta phải để tâm xem thử động tĩnh thế nào. Đó là quán tâm như tâm, các vận hành của tâm ta phải thấy rõ và làm chủ nó. Ta phải thấy một cách quán triệttoàn bộ những vọng niệm chỉ là những đợt sóng trên mặt biển tâm, cũng như sóng trên mặt đại dương, không cần diệt vọng mà chỉ cần liễu vọng, vì có tâm diệt vọng cũng như muốn lấy nước để trừ sóng, đó là cái thấy của Nhị thừa chứ không phải của Phật, Bồ tát.

Một vấn đề khác nữa, khi tâm đã Vô tác thì không còn động cơ tái sinh. Mà khi không còn động cơ tái sinh thì không còn đặt một đối tượng sở chứng sở đắc nào. Các pháp hữu vi đã là Không, là Vô tướng, thì cái gọi Niết bàn cũng không có tướng mạo. Niết bàn không phải là một cảnh giới để mình bơi lội trong đó. Nói theo nghĩa thông thường, khi ta cầm một vật gì thì vật ấy không phải là ta. Tương tự như vậy, nếu ta chứng được cảnh Niết bàn, thì Niết bàn ấy đã ở ngoài ta rồi. Niết bàn ở đây không phải là cái bị biết, mà là viên dung cả cái hay biết và cái bị biết, không phân ranh được. Khi ta thấy đoá hoa là đã biết mắt ta sáng, không còn tìm con mắt của ta nữa. Khi ta biết những đợt sóng đều là nước, thì thân năm uẩn này đã là Niết bàn, không cần tìm Niết bàn ở đâu nữa. Đó là tinh thần Vô tác.

Chúng ta đã từng nghe bài kệ của Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn trình cho Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch:

“Khứ niên bần vị thị bần,

Kim niên bần thỉ thị bần.

Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa,

Kim niên bần chùy dã vô”([ii]).

Đây là một thông điệp về sự nghèo. Cái nghèo của Ngài Hương Nghiêm chỉ có ở các vị A la hán trở lên, các vị đã đạt đến Vô sanh, tức là Vô tác.

Cái nghèo ở đây ám chỉ điều gì? Thế nào là dùi? Thế nào là đất? - Đất là chỉ cho sáu trần cảnh bên ngoài. Dùi tượng trưng cho cái tâm phân biệt hay biết. Năm xưa tuy nghèo, nhưng đối duyên xúc cảnh vẫn còn phân tâm trên cảnh, nên còn có đất cắm dùi. Năm nay, tâm năng biết đã biến thành trực giác, khi thấy cảnh không còn gá trên cảnh để sanh tâm, nên nghèo không còn đất cắm dùi. Nói cách khác, năm xưa thấy cảnh vẫn còn có tâm sở hữu, chấp trước, còn dính mắc, dù là dính mắc với cái thiện hay với trình độ tri thức của mình về phật pháp, nên dù nghèo nhưng vẫn chưa thật nghèo. Năm nay nghèo mới thật nghèo, nghĩa là Vô tác, làm tất cả mà không kể công, làm mà không có cái ngã xen vào. Đây là việc làm của các vị Bồ tát, là hành động không công đức, tức đạo đức vô hành. Bồ tát luôn luôn làm mọi việc vì người, luôn quên mình vì lợi ích của người khác. Mà trong khi quên mình để phục vụ, thì lúc đó các Ngài đã sống viên mãn với cái thật. Còn chúng ta thì thường chỉ có ý thức về mình, ít nghĩ đến người khác, nên chúng ta là những con người đau khổ. Cho nên, người nào tập quên mình bao nhiêu thì người đó sẽ có sự bù đắp vô tận vô biên. Cũng vì thế, tu không phải là sự mất mát như nhiều người lầm tưởng, bởi vì khi buông tất cả, ta sẽ được tất cả.

Tóm lại, Không-Vô tướng-Vô tác là ba cửa giải thoát, nhưng không nhất thiết phải đi cả ba cửa, chúng ta chỉ chọn một cửa thích hợp cũng vào được trong nhà. Thật ra, đây là ba khía cạnh của một vấn đề, nên nếu thâm nhập được một cửa, thì có thể thâm nhập luôn hai cửa kia.



[i] “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, liền thấy được Như Lai”

[ii] Tạm dịch: “Năm xưa nghèo chưa thật nghèo / Năm nay nghèo mới thật nghèo / Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi / Năm nay nghèo cả cái dùi cũng không”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26216)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21624)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23404)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14726)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12952)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19827)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13819)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22777)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11987)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12425)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24044)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13733)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25646)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19248)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23233)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21405)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18330)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13988)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15460)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17877)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21964)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17541)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30946)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28071)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17158)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22623)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28230)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14015)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17060)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22312)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14162)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21492)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20829)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28530)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15062)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26597)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19292)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31599)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30652)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21024)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26222)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23578)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25622)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25393)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19731)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18482)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17796)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19062)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant