Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Cốt Lõi Đạo Phật

18 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 4546)
01. Cốt Lõi Đạo Phật

HÉ MỞ CỬA GIẢI THOÁT 
Thiền Sư Thích Thanh Từ

I

CỐT LÕI ĐẠO PHẬT

 

Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ; trước phải giác ngộ nhiên hậu mới giải thoát, như nói “Biết đúng mới làm đúng”. Giác ngộ Giải thoát theo liền bên nhau không thể tách rời được. Cầu Giải thoát mà trước không Giác ngộ là sự mong cầu viễn vông thiếu thực tế. Nhưng người mắc bệnh ghiền á phiện, muốn bỏ mà không ý thức tai hại do ghiền á phiện gây ra, chạy cầu thầy bùa, thầy pháp xin bùa phép uống để khỏi ghiền, là xa vời không thực tế. Muốn bỏ bệnh ghiền á phiện chính người ấy phải nhận thức rõ ràng tai hại của bệnh ghiền, đồng thời lập chí cương quyết bỏ á phiện, dù bị cơn ghiền hành hạ thế mấy, liều chết hẳn không tái phạm. Có thế, người ấy khả dĩ thành công được việc bỏ ghiền á phiền. Mọi khổ đau trong đời sống con người đều do hành động xấu xa của con người chuốc lấy. Muốn Giải thoát mọi đau khổ, con người phải giác ngộ, cương quyết đập tan mọi nguyên nhân sinh ra đau khổ. Nhơn đau khổ đã nát thì quả đau khổ đâu còn. Vì thế, Giác ngộ Giải thoát là “Cốt Lõi Đạo Phật”

 

GIÁC NGỘ ĐAU KHỔ 

Thuở còn làm Thái Tử, sau khi chứng kiến sự sanh già bệnh chết của con người, Ngài Tất Đạt Đa quyết tâm xuất gia tầm đạo. Sau khi đã đạt đạo, Ngài thấy rõ trong mọi đau khổ chỉ luân hồi sanh tử là cái khổ to lớn dai dẳng hơn cả. Cho nên, ngót 49 năm Ngài thuyết pháp cốt chỉ rõ con đường Giải thoát Sanh tử Luân hồi cho chúng sanh. Đồng thời Ngài dùng phương tiện vạch bày phương pháp giảm thiểu đau khổ cho những chúng sanh chưa đủ khả năng thoát khỏi luân hồi.

 

GIÁC NGỘ LÝ NGHIỆP DẪN. 

Chúng sanh si mê tạo nghiệp, sức nghiệp lôi kéo chúng sanh đi vào luân hồi sanh tử. Do nghiệp dẫn dắt chúng sanh mãi trèo lên tuột xuống trong sáu nẽo luân hồi. Có khi chúng ta vui cười ở cõi trời, khi la hét ở cõi A-Tu-La, có lúc nửa cười, nửa mếu ở cõi người, lại có khi kêu la thảm thiếtđịa ngục, có lúc thất thểu đói khátngạ quỷ, có khi ngu si sống theo bản năngsúc sanh. Đang lúc bị nghiệp dẫn, chúng ta cũng có gặp những cảnh vui, song cái vui ấy chỉ trá hình của đau khổ. Vì là cái vui mỏng manh tạm bợ, rốt cuộc đều tan biến theo thời gian.

Nghiệp là hành động tạo tác của con người hoặc nói khác, nghiệp là động lực thúc đẩy lôi kéo chúng sanh đến nơi thọ quả. Cụ thể hơn, nghiệp là sức bảo tồn mạng sống hiện tại cả con người. Do hành động tạo tác nhiều lần thành thói quen, có sức mạnh lôi cuốn con người theo thói quen là nghiệp. Ban đầu ta làm chủ tạo nghiệp, nghiệp thành, làm chủ chi phối lại chúng ta. Như người khi mới tập uống rượu và sau khi đã nghiền rượu. Nghiệp dẫn dắt chúng ta lang thang vào sáu nẽo luân hồi đều do những cái sở tập của mình mà nên. Sự sống là động, ngừng mọi hoạt động trong thân thì chết. Như mũi tên rời dây cung bay bổng trong không là do sức đẩy, sức đẩy mãn thì mũi tên phải rơi. Sự sống của thân chúng ta đều do sức nghiệp, nhờ gió nghiệp thu hút tứ đại bên ngoài và thân, cũng do gió nghiệp phế thải trong thân ra ngoài, gió nghiệp dừng thì thân này phải hoại. Có bài tụng:

Đem vào nhờ gió nghiệp
Tống ra cũng gió đưa
Sự hô hấp tuần hoàn
Tất cả đều do gió
Một phen gió nghiệp dừng
Thân này như khúc goã

Thế nên, sự tồn tại của thân hiện nay và sự nối tiếp của thân mai sau đều do nghiệp. Còn nghiệp là còn sự sống và tiếp nối sự sống. Nghiệp chủ động trong vòng sinh tử của chúng sanh.

Nghiệp có nhiều thứ, nói đơn giản chỉ có hai thứ thuộc ba lớp khác nhau: thiện nghiệp, ác nghiệp, tích lũy nghiệp, cận tử nghiệp, định nghiệp, bất định nghiệp. Những hành động lành tạo thành thói quenthiện nghiệp, sẽ dẫn dắt sanh trong cõi lành. Những hành động dữ tạo thành thói quenác nghiệp, sẽ lôi cuốn vào các cõi dữ. Trong lục đạo luân hồi tùy nghiệp lành cao thấp sẽ sanh trong ba đường lành: Trời, người, A-Tu-La. Nghiệp dữ tùy nặng nhẹ sẽ sanh vào ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vì thế lành dữ đều do nghiệp, nghiệp là chính hành động hằng ngày của chúng ta. Muốn tương lai vui vẽ hay đau khổ đều do ta quyết định, chính chúng ta làm chủ vận mạng chúng ta, không ai khác có thể đem vui khổ lại cho chúng ta, kể cả đức Phật. Chúng ta là người định đoạt số phận cả mình ngay trong hiện tạivị lai.

Hằng ngày chúng ta gây tạo nghiệp lành hay dữ tích lũy thành sức mạnh, dẫn dắt chúng ta đến chỗ tương ứng thọ sanh, gọi là tích lũy nghiệp. Thuở Phật tại thế, Thích MA-HA-NAM đến bạch Phật: Hằng ngày con giữ năm giới tu thập thiện... nếu đi đường gặp cọp dữ, voi dữ hại, khi ấy chết con sẽ sanh về đâu? Đạo Phật đáp: như cây to đang nghiêng hẳn bên nào, khi ấy tâm niệm thiện đẩy mạnh, hoặc tâm niệm ác đẩy mạnh liền theo đó thọ sanh, là cận tử nghiệp. Người ta thường quan trọng giờ phút lâm chung là vì thế. Trợ niệm bằng cách nhắc lại giáo pháp mà người sắp chết đã nghe cho họ dễ tỉnh giác, hoặc tụng kinh niệm Phật theo sở thích hằng ngày của họ, khiến thêm sức mạnh để họ đi theo con đường đã chọn.

Thân miệng ý cộng tác tạo nghiệp lành hay dữ, kết quả tất yếu phải thọ báo lành hay dữ là định nghiệp. Thân miệng riêng rẽ tạo nghiệp lành hay dữ, kết quả có thể thay đổi được là bất định nghiệp. Ví như có người thù ghét chửi, tay đánh một đối phương, sau đó họ ăn năn đến xin lỗi, đối phương dù có tâm lượng rộng rãi đến đâu thử hỏi có tha thứ dễ dàng chăng? Ngược lại có người vô tình hoặc lầm lẫn chửi hay đánh kẻ khác, sau đó anh biết lỗi đến xin lỗi, chắc chắn nạn nhân kia tha thứ chẳng khó.

 

GIÁC NGỘ TU NGHIỆP THIỆN 

Biết thân miệng ý là chỗ xuất phát nghiệp người phát tâm quy y Tam bảo, trước tiên phải giữ năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm là ba điều thiện của thân; không nói dối, không uống rượu là hai điều thiện của miệng. Chỉ tu năm điều thiện này phải đủ cung cách một người tốt trong xã hội hiện nay, và sẽ là người tốt ở vị lai. Giữ trọn năm giớiđóng cửa ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), không bao giờ ta bước chân đến ba chỗ này. Thế nên, Phật chế năm giớiphương tiện giảm thiểu đau khổ cho con người trong hiện tạivị lai.

Nếu giữ trọn mười điều thiện sẽ được sanh lên cõi trời, là con đường lành cao nhất trong sáu đường. Giữ mười điều thiện là tu đủ ba nghiệp: nơi thân không sát sanh, không trộm cướp không tà dâm; nơi miệng không nói dối, không nói hai lưỡi (không lật lọng) không nói hung dữ, không nói thêu dệt; nơi ý bớt tham, bớt sân, không tà kiến. Tà kiếnnhận định lệch lạc không đúng lẽ thật, gốc từ si mê mà ra. Phật dạy: “Thấy đúng nhơn quả là chánh kiến”. Ba nghiệp biết tu thiện là tạo nguồn an lạc hiện tạimai sau.

Ngược lại, ba nghiệp tạo đầy đủ mười điều ác là nhơn của địa ngục. Địa ngục là đường khổ nhất trong sáu đường luân hồi. Đâu đợi xuống địa ngục mới khổ, ngay trong cuộc sống hiện tại này, nếu người làm đủ mười điều ác; sẽ thấy một đời hoàn toàn đau khổ. Chúng ta thử nhìn người sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, tham lam, sân hận, tà kiến có lúc nào họ được yên ổn đâu. Dù họ ở địa vị thể nào trong xã hội, bản thân và tam hồn họ vẫn đen tốiđau khổ dài dài.

Phật dạy người Phật tử tu thập thiện cốt để đầy đủ phước đức, đời sau sanh ra sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu trong cõi dục giới này. Song đây chưa phải là lối tu giải thoát, đau khổ cứu cánh, cần tiến lên những bậc trên nữa mới hoàn toàn giải thoát đau khổ. Tuy nhiên, trên đường tu, trước giữ năm giới, kế tu thập thiện là cơ bản, là hai nấc thang đầu tiên trên cây thang giải thoát, thiếu nó người tu sẽ chới với không tiến được.

 

GIÁC NGỘ DỨT NGHIỆP 

Sanh tử gốc do nghiệp dẫn, muốn hết sanh tử phải hết nghiệp. Nghiệp phát xuất từ thân miệng ý, song là chủ động là ý. Ý có nghĩ lành dữ, thân miệng mới tạo thành nghiệp lành dữ. Ý lặng rồi thì thân miệng đâu còn cơ sở tạo nghiệp. Như chiếc xe lăn bánh chạy trên đường, gốc từ cháy xăng nổ máy, muốn xe dừng thì phải hãm xăng tắt máy. Cái chủ động đã dừng, các bộ phận bị động cũng dừng. Người tu quyết giải thoát luân hồi, sanh tử phải chận đứng ý nghiệp. Khi nào ý nghiệp vắng bặt rồi, chắc chắn mình giải thoát ly sanh tử. Phương tiện dừng ý nghiệp, Phật dạy có nhiều lối, gọi là nhiều pháp môn tu. Pháp môn tu thiền, pháp môn tu tịnh độ... Mỗi pháp môn đều nhắm đập chết con khỉ ý thức. Tu thiền phải được định, niệm Phật phải nhứt tâm. Đã định thì ý thức đâu còn hoạt động. Nhất tâm thì con khỉ ý thức đã chết lịm rồi. Vì thế tu thiền đến diệt tận định thì nhập niết bàn (vô sanh) niệm Phật đến nhất tâm bất loạn thì thấy Phật A-Di-Đà đến đón về cực lạc. Nhập Niết bàn thì không còn sanh tử, về cực lạc thì hết luân hồi trong lục đạo. Được về cực lạc (vui tột) hay nhập niết bàn vô sanh mới thật là giải thoát đau khổ hoàn toàn miễn viễn. Đây là chỗ Phật Thích Ca nhằm hướng dẫn chúng sanh đạt đến.

Muốn niệm Phật được nhất tâm phải tin chắc về sự, hoặc nhận thức về lý. Tin chắc về sự là tin có cõi cực lạc, có Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn. Tin mình niệm Phật sẽ được vãng sanh. Nhận thức về lý, là nhận rõ tâm tịnh thì độ tịnh. Phật A Di Đà là tánh giác của mình. Phương pháp niệm Phật là một cách lóng lặng cho tâm mình được thanh tịnh, có câu “Tự Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” đã đủ lòng tin hay nhận thức ấy rồi, hành giả bắt đầu thực hành bằng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Miệng niệm lỗ tai lắng nghe. Phải nghe rõ ràng từng tiếng niệm của mình, dù niệm thầm cũng vậy. Niệm có chuỗi cũng tốt, không chuỗi cũng được. Cốt yếu cột tâm trong sáu chữ Di Đà, không cho tâm phóng chạy ra ngoài. Ban đầu niệm Phật có thời khóa hay có số chuỗi, sau quen rồi, trong bốn oai nghi, trong mọi hoạt động đều nhớ niệm Phật. Chỉ ngoài giờ ngủ ra tất cả giờ đều là giờ niệm Phật. Người niệm phải tin về sự, sau thời niệm Phật đều phát nguyện hồi hướng sanh về cực lạc. Cõi cực lạcmục tiêu quy hướng, tuyệt đối của người này. Đức Phật Di Đà sẽ đón họ trước giờ lâm chung, khẳng định như vậy, người niệm Phật nhận thức về lý, hướng thẳng về tâm thanh tịnh của mình. Như nói “Trì Thành Nguyệt Hiện” hồ nước đào xong, nước hồ lóng lánh trong thì mặt trăng hiện là tánh giác hiện bày. Tánh giác của Phật Di Đà, tâm thanh tịnhcực lạc. Tin về sự hướng ra ngoài, nhận thức về lý là nắm thẳng tâm mình. Tuy sự lý trong ngoài có khác, song trên phương diện thực hành chủ yếu là được nhất tâm. Nhất tâmmục đích duy nhất của phương pháp niệm Phật. Dù tin sự hay hiểu lý mà niệm Phật không nhất tâm thì cũng chẳng đến đâu. Muốn tu thiền được định tùy trình độ sai khác cũng có nhiều lối tu khác nhau. Tổng quát có hai lối, thiền tiệm thứthiền đốn ngộ.

 

THIỀN TIỆM THỨ 

Thiền tiệm thứlối tu thiền theo thứ lớp tuần tự tiến lên, có đề mục, có phương pháp ứng dụng. Tu pháp này xong, tiến lên pháp khác. Có sở chứng sở đắc từ tháp lên cao. Như lối tu quán tứ niệm xứ. Minh sát tuệ (Xem sách Thiền Nguyên Thủy). Hoặc tu lối lục diệu pháp môn. Đây là sáu cửa mầu nhiệm tiến vào thiền.

Ban đầusổ tức, là lối đếm hơi thở. Hít hơi vào cùng, đếm một, thở ra sạch đếm hai. Hoặc cả hơi vô hơi ra đếm một, chú tâm vào hơi thở vô, hơi thở ra đến đâu đều biết. Nhớ số từ một đến mười không cho lộn. Đến mười đếm lại một, cột tâm theo hơi thở và số, vừa đấy nghĩ liền kéo lại vói số và hơi thở. Chú ý đừng có đem hơi thở xuống rún sanh mệt. Hơi thở vừa dài vừa nhẹ là tốt. Đến bao giờ ngồi thiền cả giờ mà chỉ nhở số và hơi thởthành công.

Sang tùy tức là theo hơi thở, đến đây bỏ không đếm số chỉ duyên theo hơi thở ra vào, chú tâm theo hơi thở đến đâu biết rõ đến đó, ra đến tận đâu theo đến đấy. Tâm cột với hơi thở, vừa có nghĩ khác kéo lại với hơi thở, theo sát hơi thở không phút giây lơi lỏng. Cho đến khi chỉ còn biết hơi thở ra vào không nghĩ gì khác là xong phần tùy tức.

Tu chỉ: dừng tâm ở mũi xem hơi thở ra vào, như người gác cổng nhận diện từng người khách ra vào không sai sót. Trụ tâm ở mũi lâu sanh hôn trầm liền khởi quán.

Tu quán: Quán hơi thở ra vào là tướng vô thường mỏng manh tạm bợ, mạng sống lại nương hơi thở mà còn thì mạng sống cũng mong manh tạm bợ. Quả thực mạng sống chỉ trong khoảng hơi thở ra vào, thở ra không hít vào là chết, có gì là chắc chắn lâu dài. Thấy được lẽ thực này là thấy Đạo. Hoặc quán, hơi thở vào do phổi phồng lên, hơi thở ra do phổi dẹp xuống. Khi phồng lên thì mũi hít không khí vào, phổi xẹp xuống thì đẩy không khí ra; bên ngoài có không khí, bên trong có phổi, hợp với tâm lý tác động thành sự thở. Sự thở không tự có, đủ duyên mới có, đã do duyên thì hơi thở không thật. Sự thở đã không thật, mạng sống đã nương theo hơi thở mà có thì mạng sống cũng không thật. Quán rõ thấy mạng sống như huyễn hóa là thành công.

Tu hoàn: Quán nhiều sanh động, nên xoay lại tìm xem tâm năng quán này ở đâu? Tìm đáo để, không thấy nó thì năng sở tự yên lặng.

Tu tịnh: Chổ năng sở đã yên lặng này là tâm thanh tịnh, giờ ngồi thiền là xả hết vọng niệm chỉ còn một tâm thanh tịnh là tu tịnh, tâm thanh tịnh bền bỉ lâu dàixong xuôi phần tu Lục Diệu Pháp Môn (cần đọc quyển Lục Diệu Pháp Môn của Trí Khải Đại Sư).

 

THIỀN ĐỐN NGỘ 

Thiền đốn ngộlối tu trực ngộ bản tâm, gọi là kiến tánh khởi tu, không có đề mục, không có phương pháp, không có gì sở đắc, chi mê là chúng sanh ngộ là Phật, nên nói “Kiến tánh thành Phật” lối tu này không tu mà tu, không chứng mà chứng. Bởi vì khi hành giả trực nhận bản tâm, biết rõ nơi mình có cái không sanh không diệt của nó không chạy theo cái tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi; ngang đây biết rõ bộ mặt sanh diệt của nó không chạy theo nữa, khi nó dấy lên không cho nối tiếp, không khởi thì lặng yên đừng dấy niệm. Tổ Lâm Tế nói: “Đã khởi không cho tiếp nối, chưa khởi chẳng cần dấy khởi, còn hơn Ông hành cước mười năm”, Cổ Đức cũng nói “Chớ sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm”. Thiền Sư Vô Nghiệp suốt đời chỉ dùng một câu “Chớ vọng tưởng” trả lời câu hỏi của thiền khách.

Có người bảo lối tu này là “Tảo niệm” (quét sạch niệm). Song khi ngồi thiền quét, lúc tiếp duyên, xúc cảnh thâu lại, cứ quét rồi thâu đến bao giờ mới hết niệm? Đúng thế, nếu người tu chỉ biết quét khi ngồi thiền, lúc ra ngoài thì thâu lại, thật là gian nan cho lối tu này. Song ở đây không phải vậy, khi ngồi thiền không theo, lúc ra ngoài thấy các pháp đều duyên hợp hư dối như huyển hóa không có một pháp đáng lưu tâm, thì làm gì có thâu, ví như người đi chợ, cô ta dạo qua các cửa hàng, chen chúc với bao nhiêu người qua lại trên đường phố. Nhưng không có vật gì và người nào đáng cho cô để ý. Về đến nhà, người nhà hỏi: đi chợ có thấy gì không? Cô đáp: Không. có phải thật không thấy gì chăng? Hẳn không phải thế, chỉ không có gì quan trọng đáng cô chú ý nên nói không thấy gì. Khi tiếp duyên xúc cảnh, hành giả thấy rõ các pháp như huyễn hóa tự nhiên không có gì đáng để thâu. Bên trong có bao nhiêu vọng tưởng dấy lên đều không tiếp tục, lâu ngày tự hết. Lại có người bảo “không theo niệm” nhẹ nhàng quá, nếu người tọa thiền bị hôn trầm nặng nề làm sao đuổi được? Nếu khi bị hôn trầm nặng nề, hành giả chấn chỉnh thân, mở mắt sáng mà không hết, nên khởi niệm xem hôn trầm này xuất phát từ chổ nào? Tức là đặt câu hỏi “hôn trầm xuất phát từ chỗ nào?” Theo dõi lùng tìm nó thì hôn trầm sẽ tan. Khi gặp tán loạn mãnh liệt cũng thế. Hành giả nên đặt câu hỏi “vọng tưởng này xuất phất từ chổ nào?” Tìm kiếm một lúc thì sẽ hết. Khi hôn trầm tan, vọng tưởng lặng liền trở lại lối tu “không theo niệm” như trước.

Lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa “Chăn trâu Thiền Tông” Mã Tổ hỏi Thiền Sư Thạch Cung: Ông làm gì đây? Sư đáp: Con chăn trâu, Mã Tổ: Chăn thế nào? Sư đáp: Mỗi khi nó chạy vào ruộng lúa thì lôi mũi nó kéo về. Cứ thế mãi, giờ ngồi thiền chăn, giờ làm công tác chăn, giờ dạo chơi, tiếp khách cũng chăn... không lơi lỏng. Nên nói hái rau, chặt cũi, nấu cơm, đều là thiền. Chăn cho đên khi trâu không còn, người chăn cũng mất, đây là hoàn toàn an định. Thiền Sư Lương Giới tìm đến am tranh Hòa Thượng Ẩn Sơn hỏi: Hòa Thượng ở đây làm gì? Ẩn Sơn đáp: Tôi thấy hai con trâu báng lộn nhau, chạy ùa xuống sông, đến nay không có tin tức. Sư đắp y đảnh lễ. Đây là mục thứ tám trong mười mục chăn trâu nhà thiền. Trâu và chăn đều vắng bặt khi còn một vòng tròn trắng. Đến đây ý nghiệp lặng yên không còn lôi kéo vào luân hồi sanh tử nữa. Nếu hàng Nhị Thừa đến đây la nhập Niết Bàn, vì đã dứt sạch nghiệp sanh tử.

 

GIÁC NGỘ PHÁP THÂN 

Dứt sạch nghiệp mới gọi là hết sanh tử, chưa phải thành Phật. Về các kinh A Hàm đến đây là chứng Niết Bàn (Vô Sanh) của A La Hán. Kinh Pháp Hoa Phật bảoHóa thành không phải là Bảo Sở, về Thiền Tông gọi đây là đất Vô Sanh, là Tử Thủy (nước chết) là đầu sào trăm trượng, cần phải vượt qua mới được. Căn cứ vào mười mục chăn trâu nhà Thiền, chổ này mới là mục thứ tám người và trâu đều mất. Phải tiến lên mục thứ chín là lá rụng về cội, nước chảy về nguồn mới được, mục này gọi là nhập Phật giới hay là nhập Pháp thân. Cần vượt lên mục thứ mười là buông tay vào chợ hay nhập ma giới, mới vuông tròn công đức thành Phật. Dứt sạch nghiệp mới thoát khỏi đau khổ trong sanh tử cho chính mình. Song chưa đạt được Pháp thân, chưa viên mãn công đức cứu khổ chúng sanh, cần phải hòa quang đồng trần làm lợi ích tất cả chúng sanh mới vẹn tròn công đức thành Phật.

 

THẦM NGỘ LÀ ĐỦ LÒNG TIN 

Có người nghĩ, hành giả chưa trực ngộ bản tâm tu thiền đốn ngộ được chăng? Trực ngộ bản tâm là chủ yếu của người tu thiền đốn ngộ. Song có người chưa ngộ mà đủ lòng tin, tu vẫn được. Xem kinh, học luận, hỏi đạo, nghe giảng... thầm nhận mình có bản tâm bất sanh bất diệt, khẳng định không nghi ngờ, người này tu thiền đốn ngộ được. Thiền Sư Pháp Thường đến hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật? Mã Tổ đáp: Tức tâm là Phật. Sư thầm nhận đến núi Đại Mai cất am tu. Sau Mã Tổ nghe, sai vị Tăng đến thăm dò, Tăng đến hỏi Sư: Hòa Thượng gặp Mã Tổ đã được cái gì về ở núi này. Sư đáp: Mã Tổ nói với tôi: tức tâm là Phật, tôi bèn đến núi này. Tăng thưa: Gần đây Mã Tổ lại nói: “Phi tâm phi Phật”. Sư bảo: ông già mê hoặc người, chưa có ngày xong, mặc ông phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết tức tâm tức Phật. Vị Tăng trở về thuật lại Mã Tổ. Mã Tổ nói với đại chúng: Trái mai đã chín. Đây là tin nhận mình có bản tâm, chân thật một cách chắc chắntu thiền đốn ngộ chăn trâu được.

Hoặc giả nhận rõ vọng tưởng hư dối như sương như khói, không theo, không bị nó dẫn, đến khi nó tan biến hoàn toàn, chơn tâm hiển lộ. Ngài Huệ Khả sau khi được Tổ Đạt Ma nhận làm môn đồ, Ngài hỏi Tổ: Tâm con chưa an xin thầy dạy con phương pháp an tâm? Tổ Đạt Ma nhìn thẳng mặt bảo: Đem tâm ra ta an cho. Ngài sửng sốt lặng tìm liền đáp: Con tìm tâm không được. Tổ Đạt Ma: Ta đã an tâm cho ông. Ngài Huệ Khả liền biết lối vào. Bình nhật chúng ta thấy tâm tưởng lăng xăng, khi nhìn lại, khi mất bóng bặt dáng. Thế là nó hư dối không thật. Biết rõ nó hư dối là nó không có khả năng lôi cuốn dẫn dắt chúng ta nữa. Không chạy theo không bị dẫn, chẳng an là gì? An tâm là nhìn thẳng bộ mặt hư dối của nó, nó tự tan biến còn gì nữa mà động. Thời gian sau, Ngài Huệ Khả thưa Tổ Đạt Ma: Con nay bặt hết các duyên. Tổ Đạt Ma bảo: Coi chừng rơi vào đoạn diệt. Ngài Huệ Khả thưa: Không rơi.

Rõ ràng thường biết nói không thể đến. Tổ Đạt Ma nói: Đây là chổ truyền của Chư Phật, chớ có hoài nghi. Thế là tự nhận biết tâm bất anhư dối. Ngài Huệ Khả chăn nó đến lúc không còn tâm dạng là “Bặt hết các duyên” chỉ còn lại cái “rõ ràng thường biết” là chổ Chư Phật truyền nhau.

Có nhiều người học đạo đã thầm nhận mình có cái chân thật sẵn đủ, hoặc biết rõ vọng tâm hư dối, mà vẫn chưa đủ lòng tin để tiến tu, họ cứ đòi hỏi phải ngộ mới tu được, quả thực họ đang đuổi theo cái ảo ảnh của danh từ ngộ. Đâu biết rằng tin chắc không nghi là đã thầm ngộ.

 

KẾT THÚC

Trên tiến hành tu tập từ phàm phu đến Phật quả thật là thăm thẳm gian truân. Song vì ý thức được sự đau khổ trong kiếp mê lầm, sự đọa đầy trong vòng lục đạo, chúng ta phải nổ lực tiếp tu. Nhờ thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, chúng ta mới thấy đường để tháo gỡ những gút mắc của muôn ngàn sợi dây nghiệp báo. Gỡ sạch những vòng dây nghiệp báo rồi, chúng ta được thảnh thơi, tự tại. Song, thân bằng quyến thuộc của ta, đồng bào của ta, đồng loại ta, đang bị chúng bủa vây bao phủ, đành lòng nào chúng ta lại ngó lơ. Thế là, vén áo xăn quần, chúng ta lao mình vào cõi trần ai để dìu dắt nhân loại thoát khỏi khổ ải. Đây là hình ảnh Thiền Sư vai mang chiếc đảy, tay cầm bầu rượu, kết bè hợp bạn với đám người đầu đường xó chợ, đem ánh sáng hòa lẫn với bụi bặm, quả là “đầu tro mặt đất” lang thang. Có thế mới tròn bản nguyện đại bi, mới đủ công đức giải thoát chúng sanh ra khỏi sông mê bể khổ. Cứu mình độ người được viên mãn, đều đặt trọn trên nền tảng giác ngộ giải thoát của đạo Phật.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14306)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11845)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14363)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13281)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14648)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25262)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27893)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26366)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17235)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16528)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15918)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22145)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17137)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24915)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21979)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19078)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16174)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21727)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16785)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14669)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16708)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18781)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16617)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18015)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12928)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14948)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12713)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13892)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14607)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28038)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27206)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14350)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24189)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28693)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14737)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13293)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16461)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27254)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12021)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant