Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Người Dịch

14 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 9697)
Lời Người Dịch

THIÊN KHI NHƯ HUYỄN bình
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
TIẾNG SÁO THÉP
(100 CÔNG ÁN THIỀN)

Lời Người Dịch

  

 Từ khi Thiền sư Phật Quả Viên Ngộ (1063-1135) bình và tụng100 tắc trong Tuyết Đậu Tụng Cổ của Tuyết Đậu Trùng Hiển (908-1052), Bích Nham Lục thành hìnhlưu hành rộng rãi trong giới học Thiền xưa cũng như nay. Bích Nham Lục đã có lần là trở ngại lớn cho người tham thiền và cũng trải qua trở ngại lớn. Trở ngại lớn vì văn chương trác việt, ý đạo thâm huyền, người học khó thấy lối thoát ra chỉ vì bám vào chữ và nghĩa. Thấy rõ cái nguy đó, Đại Huệ Tông Cảo (1069-1163), người thừa kế Pháp của Phật Quả Viên Ngộ, đã thu góp hầu hết các bản in lưu hành thời bấy giờ, chất thành đống trước cửa chùa, cho một mồi lửa đốt sạch, khiến sách hầu như thất truyền trong một thời gian, nên gọi là trải qua trở ngại lớn.

 Đốt Bích Nham Lục chỉ là một trong những việc làm chấn động để cảnh tỉnh người tham học đương thời và cũng cho các thế hệ sau. Mặt khác, khi còn hành cước cũng như lúc dừng trụ để dạy chúng, Đại Huệ đã mãnh liệt tấn công những người tu pháp môn mặc chiếu của tông Tào Động đã hiểu và thực hành sai, gọi đó là “mặc chiếu tà thiền.” Đối thủ lớn của sư là Hoằng Trí Chánh Giác (1091-1157), thuộc dòng Tào Động, đã chọn 100 tắc, làm tụng cho mỗi tắc, gọi là “Tụng Cổ Bách Tắc.” Tác phẩm này tương tự như tác phẩm của Tuyết Đậu, và sau đó được Vạn Tùng Hành Tú, cũng thuộc dòng Tào Động, đem ra bình và tụng từng tắc một, giống như Phật Quả Viên Ngộ đã làm đối với Tuyết Đậu Tụng Cổ. Từ đó giới học Thiền có thêm Thung Dung Lục, là tập công án thiền đầu tiên của tông Tào Động, cho đến ngày nay nó vẫn còn được dùng song song với Bích Nham Lục, Vô Môn Quan, Truyền Quang Lục . . . trong giới dạy và học Thiền ở Nhật.

 Tiếng Sáo Thép, hay Thiết Địch Đảo Xuy, cũng được hình thành tương tự như Bích Nham LụcThung Dung Lục. Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc dòng Thiền Tào Động Nhật, viết và xuất bản vào năm 1783, cũng chọn 100 câu chuyện hay tắc, làm tụng và lời bình cho mỗi chuyện. Hầu hết các câu chuyện và lời bình và tụng trong tác phẩm này khác hẳn với những công án đã có trong các tác phẩm nói trên. Thêm vào đó còn có lời nhận xét riêng, câu đối câu, của Thiền sư Fugai, người thừa kế Pháp của Genro, tất cả ngắn gọn, hàm súc và bắn đúng tâm điểm.

 Gần đây, Thiết Địch Đảo Xuy được Thiên Khi Như Huyễn (Nyogen Senzaki, 1876-1958), một đệ tử nối Pháp của Hồng Nhạc Tông Diễn (Kogaku Soen) -- cũng gọi là Thích Tông Diễn (Soen Shaku), thuộc dòng Thiền Bạch Ẩn Nhật bản và cũng là Thiền sư đầu tiên đến châu Mỹ -- dịch sang tiếng Anh từng chuyện một và kèm theo lời bình riêng của ông, vốn là để cho các đệ tử nói tiếng Anh trên đất Mỹ tham học. Việc làm này được ông bắt đầu từ năm 1939 cho đến khi nó thành tập sách này vào năm1945. Mỗi khi ông dịch và viết lời bình xong cho một chuyện, ông đem ra đọc cho các đệ tử của ông nghe như một bài nói Pháp, rồi đưa cho người học chuyền tay nhau chép làm tài liệu để dùng riêng. Cho đến khi Ruth Trout Mccandles bắt đầu góp nhặt tất cả những gì đã có, tu sửa câu văn tiếng Anh cho ông, thì tác phẩm thành hình như hiện tại, và nhà Charles E. Tuttle Company xuất bản lần đầu tiên vào năm 1964 và tái bản lần này vào năm 2000 với nhan đề là The Iron Flute”.

 Thiên Khi Như Huyễn kiêm thông cả Thiền Lâm Tế lẫn Thiền Tào Động và cũng thâm hiểu ba Tạng kinh điển Phật giáo. Ông đã từ chối danh vị Thiền sưnếp sống chùa chiền Nhật bản để sống lang thang trên đất Mỹ và đã lập Thiền đường “nổi” của mình ngay giữa lòng thành phố Nữu Ước ồn náo. Vì Thiên Khi Như Huyễn đã sống hầu hết quảng đời hành đạo của ông trên đất Mỹ, hiểu được tâm lý, phong tục tập quán người Mỹ, biết và hiểu một số tôn giáo, huyền học khác như Sufism, Rinds, Dervishes, Meister Eckhart... và các học thuyết triết học lớn của Tây phương như Hegel, hay các nhà khoa học lớn như Albert Einstein . . . nên lời bình của ông không những phát xuất từ nguồn Thiền Bạch Ẩn mà còn phù hợp với con người tu học hiện đại, giúp chúng ta hiểu Thiền xưa dễ hơn. Vì vậy khi dịch The Iron Flute sang tiếng Việt, tôi chỉ cố gắng giữ tinh thần ấy cũng như tinh thần công án thôi. Do đó, trong bản dịch tiếng Việt này, nếu có độc giả nào đem đối chiếu với nguyên văn chữ Hán của các câu chuyện hay lời nói của các sư xưa sẽ thấy có chỗ khác nhau về mặt ngôn ngữ diễn đạt hay kết cấu câu chuyện. Nhưng đó chẳng phải tham thoại đầu hay tham công án, vậy xin dành lại việc này cho nhà nghiên cứu từ và nghĩa. Vả lại, nguyên văn chữ Hán cũng có những bản khác nhau, cách đọc và hiểu của người Nhật và người Việt đối với một bản văn chữ Hán cũng có chỗ khác nhau, nhất là khi nó đã được chuyển sang một ngôn ngữ Tây phương, như tiếng Anh trong trường hợp này. Hơn nữa, khi học Thiền tham công án, người tham trước tiên được thầy trao cho công án, một câu, một lời của Phật, của Tổ hay các Sư xưa, rồi tập trung tất cả thân tâm mình bám lấy nó, lúc ngồi cũng như lúc nằm, lúc đứng cũng như lúc đi, lúc ngủ cũng như lúc thức, lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi . . . để trở thành một với thoại đầu, trong ngoài trở thành một mảnh, rồi cứ tiếp tục nữa cho đến khi bất chợt rơi vào chỗ xưa nay vẫn ngay dưới gót chân mình. Nếu đến được chỗ ấy, công án chẳng còn, một mảy cũng không, thân tâm thoát lạc. Há chẳng vui sao?

 

Frederick, ngày 22 tháng 11 năm 2000

Đỗ Đình Đồng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19885)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20949)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19315)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40569)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21291)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41110)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24142)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23081)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17871)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26993)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20767)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33659)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21053)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28953)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12712)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25335)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19163)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17530)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25808)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19033)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19012)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29052)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18929)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33368)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38431)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31276)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18257)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24537)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19464)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17925)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23084)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18041)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32228)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17399)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17443)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16094)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18576)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20789)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18089)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20132)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14912)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20935)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15075)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15777)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12948)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14521)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14935)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29437)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14539)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant