Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dẫn Nhập

17 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6241)
Dẫn Nhập

VŨ TRỤ TRONG MỘT NGUYÊN TỬ

Nguyên tác: The Universe in a Single Atom của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Dịch Việt: Làng Đậu Võ Quang Nhân

Dẫn Nhập


Tôi chưa bao giờ tự đào tạo mình trong khoa học. Kiến thức của tôi chủ yếu có được từ việc đọc tin tức về các đề tài khoa học quan trọng trong các tạp chí như là tờ Newsweek, hay từ việc nghe các tường thuật của Thế Giới Vụ Đài BBC, và sau này, là từ việc đọc các sách giáo khoa về thiên văn. Hơn 30 năm qua, tôi vẫn tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ riêng tư và nhiều hội đàm với các nhà khoa học. Trong các lần gặp này, tôi luôn cố nắm bắt ý tưởng khoa học bên dưới của các mô hình và các phương pháp cũng như là nắm được nội dung hàm ý của các lý thuyết đặc biệt hay các phát kiến mới. Tuy nhiên, khi tư duy sâu vào trong khoa học, tôi không chỉ nghĩ đến các nội dung của nó để hiểu được thực chất mà còn mà cả đến vấn đề quan trọng hơn là liệu nó ảnh hưởng đến đạo đức và các giá trị nhân bản ra sao. Các lãnh vực khoa học mà tôi đã đang khảo sát trong suốt nhiều năm trời là vật lý hạt cơ bản, vũ trụ học, và sinh học, trong đó bao gồm cả thần kinh học và tâm lý học. Với tiền đề là sự rèn luyện trí tuệ của chính bản thân mình trong tư tưởng Phật giáo, tôi vẫn thường kinh ngạc về mối tương giao giữa các quan điểm Phật giáo mấu chốt và các ý tưởng khoa học chính yếu. Tập sách này là kết quả của thời gian dài suy tư về điều đó và của cuộc hành trình trí tuệ của một tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng đến với thế giới các buồng bọt, các máy gia tốc hạt, và fMRI (máy ảnh chức năng cộng hưởng từ)[1]
Nhiều năm sau khi lưu vong tại Ấn-độ, tình cờ nhận một lá thư mở được viết từ thập niên 1940 dành cho các trí sĩ Phật giáo Tây Tạng. Nó đã được viết bởi Gendün Chöphel[2], một học giả Tây Tạng; ông này chẳng những uyên bác tiếng Phạn mà cũng là người duy nhất trong giới trí sĩ Tây Tạng đương thời rất thành thạo Anh ngữ. Ông ta đã châu du khắp vùng Anh-Ấn, Afganishtan, Nepal và Sri Lanka trong thập niên 1930. Lá thư này được viết để hướng tới dịp kết thúc chuyến đi 12 năm; nó thật sự làm tôi hết sức ngạc nhiên. Nó cho thấy rõ về nhiều lĩnh vực mà trong đó có thể có cuộc đối thoại đầy ích lợi giữa Phật giáo và khoa học hiện đại. Tôi phát hiện ra rằng nhận xét của Gendün Chöphel thường trùng hợp một cách đáng chú ý với nhận xét của tôi. Điều đáng tiếc là lá thư này đã không thu hút được sự chú ý xứng đáng, một phần là vì lá thư đã không được phổ biến đúng mực ở Tây Tạng trước khi tôi rời nơi đó vào năm 1959. Nhưng tôi thấy ấm lòng vì rằng hành trình của tôi vào thế giới khoa học đã có được một người trong cùng truyền thống (Phật giáo) Tây Tạng với tôi đi trước. Hay hơn cả là vì Gendün Chöphel đến từ Amdo, quê nhà của tôi. Thời điểm bắt gặp được lá thư đã được viết như thế này sau nhiều năm thật sự gây ấn tượng.

Tôi nhớ lại một cuộc đàm thoại không dễ dàng chỉ vài năm trước đó giữa tôi với một phụ nữ Hoa Kì lấy chồng Tây Tạng. Nghe tin tôi hứng thú trong khoa học và chủ động tiến hành đối thoại với các nhà khoa học, bà ấy đã cảnh báo tôi về sự nguy hiểm mà khoa học đặt ra cho sự sống còn của Phật giáo. Bà nói với tôi rằng lịch sử minh chứng một sự thật rằng khoa học chính là "sát thủ" đối với tôn giáo và khuyên bảo tôi thật sự sẽ không khôn ngoan nếu để cho Dalai Lama mưu cầu tình bằng hữu với những ai đại điện trong chuyên nghiệp (khoa học) này. Để thực hiện hành trình đi vào khoa học tôi giả định rằng mình có vào hang cọp mới bắt được cọp con[3]. Quyết đoán của tôi trong việc mạo hiểm vào khoa học dựa trên cơ sở tin tưởng là trong khoa học cũng như Phật học thì việc hiểu biết về bản chất của thực tại được theo đuổi bằng ý nghĩa của việc khảo cứu biện bác: nếu phân tích khoa học chứng minh một cách thuyết phục rằng các luận điểm Phật giáo nào đó là sai thì chúng ta phải chấp nhận phát giác đó của khoa học và từ bỏ các luận điểm này.

Vì là người có tâm hồn không phân biệt quốc gia, nên một phẩm chất của các nhà khoa học khiến tôi hầu như nhích lại gần hơn với họ, đó là ước muốn đáng kinh ngạc của các nhà khoa học nhằm chia sẻ kiến thức cùng nhau bất kể biên giới quốc gia. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khi mà nền chính trị thế giới bị phân cực đến mức độ nguy hiểm, tôi vẫn thấy các nhà khoa học từ các khối Đông và Tây sẵn lòng để liên lạc nhau trong những cách thức mà các nhà chính trị không thể tưởng ra được. Tôi đã cảm thấy một sự công nhận ngầm trong tinh thần này về sự thống nhất của nhân loại và một sự phóng khoáng về sở hữu của tri thức.

Động lực của mối quan tâm của tôi đến với khoa học có nhiều hơn tính cách cá nhân. Ngay cả trước khi tỵ nạn, thì điều hiển nhiên cho tôi và cho nhiều người về nguyên nhân đàng sau của thảm kịch chính trị ở Tây Tạng là vì sai sót của nó trong việc mở cửa để hiện đại hoá. Ngay sau khi đến Ấn-độ, chúng tôi đã thiết lập các trường học cho trẻ em tỵ nạn với chương trình học hiện đại, trong đó lần đầu tiên nó bao gồm cả giáo dục khoa học. Từ đó tôi nhận ra điểm mấu chốt cho việc hiện đại hoá thuộc vào sự khai mào của giáo dục hiện đại, và trọng tâm của giáo dục hiện đại phải là việc nắm bắt được khoa học và công nghệ. Sở nguyện cá nhân về đề án giáo dục này đã dẫn dắt tôi đến ngay cả việc khuyến khích các học viện tu sĩ, nơi mà vai trò chủ yếu là giảng dạy Phật học, hãy đưa khoa học vào chương trình đào tạo của họ.

Khi hiểu biết về khoa học càng mở rộng hơn thì tôi cũng càng thấy rõ, nếu chỉ nói về thế giới vật lý, thì có nhiều lãnh vực của tư tưởng Phật giáo truyền thống mà tại đó các giải thích và thuyết lý của chúng tôi là cơ bản khi so sánh với những giải thíchlý thuyết của khoa học hiện đại. Nhưng đồng thời, ngay cả tại các quốc gia có nền khoa học phát triển cao, thì rõ ràng con người cũng vẫn phải tiếp tục trải qua khổ đau đặc biệt là ở mức độ tâm lý và xúc cảm. Lợi ích vỹ đại của khoa học là nó có thể góp phần to tát vào việc giảm nhẹ các đau đớn ở mức độ thể chất. Nhưng chỉ có thể bằng việc nuôi dưỡng các phẩm chất của nhân tâm và sự chuyển hoá của các thái độ thì ta mới có thể bắt đầu định hướng đến và vượt qua đau khổ về tinh thần của mình. Nói cách khác, việc nâng cao các giá trị nền tảng của con người thật thiết yếu cho truy tầm cơ bản của chúng ta đến với hạnh phúc. Do đó, từ góc nhìn về phúc lạc con người, khoa học và tâm linh không thể không có tương quan. Chúng ta cần cả hai, bởi vì sự thuyên giảm của đau khổ phải được diễn ra ở cả mức độ thể chất lẫn tâm lý.

Sách này không phải là một cố gắng để thống nhất khoa học với tâm linh (chẳng hạn như với Phật giáo, thứ mà tôi biết nhiều nhất) mà là một nỗ lực để thẩm tra hai ngành quan trọng của nhân loại nhằm mục đích phát triển một phương thức toàn diện và tổng hợp hơn để tìm hiểu thế giới xung quanh ta, là phương thức sẽ thăm dò sâu xa vào chỗ thấy được và chỗ chưa thấy được, thông qua sự phát hiện của các chứng cớ được hỗ trợ bởi lập luận. Tôi không có ý nêu ra một khảo luận uyên bác đến các điểm tiềm tàng về sự hội tụ giữa Phật học và khoa học – hãy để đó cho các nhà nghiên cứu chuyên môn. Đúng hơn, tôi tin rằng tâm linh và khoa học có khác nhau nhưng chúng bổ xung cho các tiếp cận tham cứu với cùng mục đích lớn hơn để tìm kiếm chân lý. Trong nỗ lực này, có nhiều thứ để mỗi ngành học hỏi lẫn nhau, và cùng nhau, chúng có thể đóng góp để mở rộng chân trời tri kiếntrí tuệ của nhân loại. Hơn thế nữa, thông qua đối thoại giữa hai ngành, tôi hy vọng cả hai – khoa học và tâm linh – có thể phát triển để phục vụ nhu cầu và sự hoàn thiện của con người. Hơn nữa, qua việc thuật lại cuộc hành trình của chính mình, tôi mong ước nhấn mạnh cho hàng triệu Phật tử đang theo gót tôi trên toàn thế giới về sự cần thiết để tiếp nhận khoa học một cách nghiêm túc và chấp nhận những phát hiện nền tảng của khoa học trong các quan điểm về thế giới của các phát hiện đó.

Cuộc đối thoại giữa khoa học và tâm linh có một lịch sử lâu dài đặc biệt là với Thiên Chúa giáo. Trong trường hợp đối với dòng tuyền thừa của riêng tôi, Phật giáo Tây Tạng, vì nhiều lý do lịch sử, xã hội, và chính trị [điều đó] vẫn còn là một tiến trình mới lạ. Những chỉ dấu về cái mà khoa học phải đưa ra vẫn còn chưa hoàn toàn tỏ tường. Bất kể mọi quan điểm (cá nhân) khác biệt trong khoa học, không một hiểu biết đáng tin cậy nào về sự tồn tại của thế giới tự nhiên hay của con người chúng ta có thể bỏ qua được những thấu suốt của các lý thuyết làm chìa khóa cho sự tiến bộ, đó là thuyết tương đối và cơ học lượng tử – những hiểu biết đó sẽ được tôi gọi trong sách này là một thế giới quan. Có thể khoa học sẽ học hỏi được từ việc cộng tác với tâm linh, đặc biệt là qua giao diện của nó với các vấn đề rộng lớn hơn của con người, từ đạo đức cho đến xã hội; ngược lại, chắc chắn trong một số khía cạnh đặc biệt của tư tưởng Phật giáo – như là các lý thuyết thiên văn lâu đời và nền vật lý sơ khai của Phật giáo sẽ phải được điều chỉnh dưới ánh sáng các thấu triệt của khoa học. Tôi hy vọng sách này sẽ góp phần vào kế hoạch cốt làm sinh động cuộc đối thoại giữa khoa học và tâm linh.

mục tiêu là để khảo sát các vấn đề ở mức sâu nhất của thế giới đương thời, nên tôi mong ước tiếp kiến với các giới trong bình diện rộng nhất nếu có thể. Điều này thật không dễ dàng gì với các luận cứ và tranh cãi đôi khi phức tạp trong cả triết học Phật giáo[4] lẫn khoa học. Với lòng thiết tha đạt tới cuộc luận bàn, thỉnh thoảng tôi đã quá đơn giản hóa vấn đề. Xin biết ơn hai vị hiệu đính, người thông dịch lâu năm Thupten Jinpa của tôi và cộng sự viên Jas'Elsner về sự hỗ trợ của họ trong việc giúp soạn thảo lại các ý kiến của tôi một cách sáng tỏ nhất có thể được bằng Anh ngữ. Tôi cũng mong muốn cảm tạ rất nhiều cá nhân đã giúp tôi trong việc giúp đỡ họ và phê bình trong nhiều giai đoạn của bản thảo. Hơn hết, tôi biết ơn tất cả các nhà khoa học đã gặp gỡ, dành cho tôi nhiều thì giờ của họ và cho thấy một sự kiên trì rất lớn trong việc giải thích những ý tưởng phức tạp cho một người học trò đôi khi chậm chạp này.



[1] Buồng bọt (bubble chamber) là thiết bị để ghi lại vết dịch chuyển của quỹ đạo (thay đổi) của các hạt vật lý. Trong thực tế, các buồng bọt vật lý có dạng hình ống lấp đầy bởi một loại chất lỏng (thường là hydrogen lỏng) được nung nóng lên đến gần độ bốc hơi của chất lỏng đó. Khi hạt vật lý bay vào buồng, thì có một piston kéo nhanh ra làm mở rộng thể tích của buồng do đó giảm áp suất buồng một cách đột ngột. Hậu quả là chất lỏng bị quá nóng (hơn nhiệt độ bốc hơi thường có của nó tại cùng áp suất) nên chuyển pha thành dạng siêu cân bằng (hay còn gọi là cân bằng địa phương). Các hạt vật lý dịch chuyển (theo quỹ đạo đặc trưng của nó) sẽ tạo ra một vệt ion hoá bao bọc đường dịch chuyển của hạt này, vệt này phủ quanh bởi chất lỏng bị bốc hơi và tạo thành các bọt (bong bóng) cực nhỏ. Mật độ của bọt bao bọc đường chuyển động của hạt vật lý tỉ lệ với năng lượng mà nó truyền vào buồng bọt. Dựa vào đó người ta có thể quan sát và đo đạc được các hướng chuyển động cũng như các đặc tính vật lý khác. “Bubble_chamber”. Wikipedia. Truy cập: 29/07/2009

<http://en.wikipedia.org/wiki/Bubble_chamber>
Máy gia tốc hạt
(particle accelerator) là thiết bị vật lý nhằm tăng tốc của các hạt vật lý lên mức độ đáng kể. “Particle_accelerator”. Wikipedia. Truy cập: 29/07/2009

<http://en.wikipedia.org/wiki/Particle_accelerator>

fMRI chữ viết tắt của cụm từ "functional magnetic resonances imaging". “Functional magnetic resonance imaging”. Wikipedia. Truy cập: 29/07/2009

<http://en.wikipedia.org/wiki/Functional_magnetic_resonance_imaging>

[2] Amdo Gendün Chöphel (1903-1951) là một gương mặt sáng tạo và có nhiều tranh cãi, ông là một trong những học giả lớn của Tây Tạng nửa đầu thế kỉ 20. “Gedun Chophel”. Gedun Choppel. Truy Cập: 29/07/2009

<http://www.gdqpzhx.com/english/> )

[3] Dịch từ thành ngữ "stick your neck out" có hai nghiã chính một là dám tiến hành điều nguy hiểm, nghiã khác là dám cho ý kiến mà người khác không muốn hay không dám nói ra.

[4] Theo quan điểm của đức Dalai Lama thì toàn bộ Phật học có thể chia làm 3 phần: 
1. Khoa Hoc Phật giáo (Buddhist Science): hay là các lập luận và Phân tích Phật giáo: Đây là những phương pháp suy luận, phân tích Phật giáo cùng với những quy luật khách quan mà Phật giáo lấy làm nền tảng. Trong đó, việc phân tích khảo sát các đối tượng hoàn toàn chỉ là các lập luận có tính khách quan dựa trên các tiền đề cơ sở (trong đó, chúng ta có thể thấy được bên cạnh hệ thống suy luận lô-gíc, là các quy luật chẳng hạn như luật nhân quả, thuyết duyên sinh. Sau đó là các lập luận về quan điểm Nhị Đế, và giáo lý về Tính Không.

 2. Triết Học Phật giáo (Buddhist Philosophy): Từ các suy luận trên cơ sở các quy luật, Phật giáo phát triển theo chiều sâu và rộng và phân nhánh thành hệ thống triết lý. Hệ thống này sẽ là nền tảng cho nhân sinh quan, thế giới quan, và vũ trụ quan Phật giáo. Các quan điểm triết học này bao gồm nhiều kết luận dẫn xuất từ các nguyên lý cơ bản trong Khoa học Phật giáo.
3. Thực Hành Phật giáo (Buddhist Practice): Từ hệ thống triết lý Phật giáo, các môn sinh sẽ tiếp thu và phát triển thành các truyền thống thực hành tu học phù hợp với hệ thống truyền thừacăn cơ của mình. Các truyền thống tu học Phật giáo thực sự phong phú từ Nguyên Thủy, Đại thừa, cho đến Zen hay Mật tông ... Nó có tùy theo hoàn cảnh lịch sử địa dư mà hình thành các giáo pháp thích ứng với con người.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13588)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13737)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22214)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21871)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27380)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17775)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12329)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23276)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25710)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22294)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13990)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13434)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22476)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26372)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18477)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18962)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34509)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27377)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28424)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21377)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14899)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19216)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18575)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13183)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14026)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11633)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11891)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12395)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13437)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13332)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11903)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21866)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11095)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant